Social Icons

Pages

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

TÌM HIỂU TỔNG QUÁT VỀ NGOẠI CÔNG - NỘI CÔNG KHÍ CÔNG - THẦN CÔNG


Thân và tâm con người là cả một thế giới tập trung lại (tiểu vũ trụ). Thân và Tâm là một. Tách bạch ra để dể hình dung mà hiểu rõ. Ngoài Thân không Tâm. Nếu không rõ Tâm cũng chẳng có Thân. Thế nên, con người muốn tự đào luyện lấy mình một cách toàn thiện toàn mỹ cần phải tự đào luyện cả Thân, Tâm cùng một lúc.

Người tập võ trước sau cũng cùng đều tập luyện cả Ngoại, Nội, Khí và Thần công vì chúng liên quan gắn bó với nhau, mà căn bản mở đầu là khí công với phương pháp thở Bụng chứ không thở Ngực như các môn thể dục thể thao.

I. NGOẠI CÔNG: 

Môn ngoại công chú trọng về mặt sinh lý, vật chất, rèn luyện sao cho gân bắp vồng to để phô trương sức mạnh đơn thuần về thân thể, nhưng cũng phải huy động năng lượng của Tinh, Khí, chém không đứt, hoặc nằm trên bàn chông đóng đinh sắt lớn như các ông Sơn Ðông mãi võ ng ?Sơn Ðông mãi võ” luyện Thiết
Bởi vậy, dù là luyện tập ngoại công cũng thở theo khí công, tập trung ý chí, kiên định chuyển nâng lực tinh, khí, thần thành năng lực cơ bắp.

II. NỘI CÔNG: 

Ðặt nền tảng trên sự huấnluyện đồng bộ, phối hợp tinh thần, thể xác, ý chí, phối hợp giữ sự rèn Tâm, Y', Khi' cùn glúc với cách thở khí công (thở bụng) và luyện nội lực. Môn nội công chú trọng ba điều:

1. Ðiều Tâm (linh hồn)2. Khiển Ý ( lý)3. Chuyễn khí ( chí)

Theo tâm lý người xưa, tinh thần thống trị tất cả, được biểu thị bằng 3 dạng ý thức, tiềm thức và vô thức.
Bước đầu tập luyện nội công là đạt được thế đứng tấn cho vững, tập trung ý chí quên mọi cảnh vật chung quanh, đôi tay thao tác chịp nhàng, hơi thở điều hoà ba nhịp: Hô, Hấp, Vận. Giai đoạn này luyện nôi khí lực và tập trung tinh thần, ý chí lưu chuyển từ lông mày cho tời gót chân. Như vậy, trí nảo của ta được dẫn đi phiêu du trên một con đường tưởng tượng. Với sự tập trung đồng nhất này, các tư tưởng tạp nhạp làm xao lãng tinhthần sẽ không xen vào được. Do vậy, tâm hồn người tập tràn đầy nhiệt khí và khi đó thân thể cảm thấy khoan khoái, tứ chi linh hoạt, một niềm sảng khoái bao la tràn tới, hô hấp luân chuyển nhịp nhàng, máu huyết lưu thông đều đặn. Người tập luyện nội công phải: Trầm tỉnh, từ tốn, nhu hoà.
Những từ ngữ này không những chỉ về động tác bên ngoài mà còn chỉ trạng tháïi, tâm hồn, tự chủ, vượt trên mọi sự hấp tấp, nóng giận. sự trầm tỉnh, từ tốn, nhu hoà có ảnh hưởng cả nội thể lẫn ngoại giới. Người mới tập sẽ đủ thời giờ tìm tòi, nghe ngóng cảm nhận từ tâm thân để rút ra những tinh túy của võ thuật mà điều chỉnh sự hoạt động của thân thể.
Sức mạnh của nội công ẩn tàng bên trong, thấm nhuần mọi chổ qua các bộ phận. Nó thực sự là một kho tàng vô tận được gìn giữ bên trong và khi cần, nó có thể, nhanh nhậy đồng bộ ứng xuất. Thấm nhuần khắp cơ thể, phong thái điềm đạm, thinh lặng, tâm hồn sâu lắng quân bình, hơi thở điều hoà đúng nhịp, người luyện nội công tới mức thâm hậu khi xử dụng võ thuật, đòn phát ra từ tay chân rất chính xác, cân xứng với sức chịu đựng của đối thủ. Sức mạnh của nội công không nằm nguyên một chổ nào, nó có thể bắn ra từ 4 phía, nó có thể cương hay nhu, trải ra trên một khoảng rộng hoặc quy vào một điểm nhỏ, lúc thì phát hiện ra bên ngoài, khi thì co rút vào bên trong, linh diệu, đồng bộ cả tâm - ý - thể.
Môn nội công nghiên cứu sâu về dịch lý, thay đổi với tác dụng hổ tương giữa nhu và cương, phải thắng địch bằng sự khôn ngoan chính trực hơn là dùng xảo thuật, điềm đạm chậm rãi mà thắng chớp nhoáng, không cố ý vận dụng sức mạnh mà chế phục địch dễ dàng, phản xạ bén nhậy bất chợt né tránh, bước xéo phản đòn một cách tự nhiên, tốn ít sức mà u về
Nội công mang lại hơi thở cho võ thuật, do đó, có thể nói: Dạy tự vệ chiến đấu và dạy đạo hành xử ở đời là một. Khi luyện nội công, tinh thần phải nắm được thân xác. Nghĩa là, trước hết phải hấp thụ được tâm bất động và vong thân (quên minh). Ðây là cơ ng, tinh thần phải ?nắm? được

CÁCH THỞ TRONG NỘI CÔNG

Hơi thở trong nội công có một tầm mức rất quan trọng, nó là cái dây không những dẫn ta đến sự tự chủ hoàn toàn về thể chất cũng như tinh thần, mà còn tăng cường năng lực cho ta một cách chắc chắn.
Luyện nội công phải thở Ðan Ðiền (tức thở bụng). Ðan điền nằm dưới rốn khoảng 4 cm. Thở Ðan điền là thở sâu hơi xuống bụng dưới chớ không chỉ vào ngực mà thôi. Loại thở này không những có tác dụng bồi bổ đan điền mà còn tăng dung tích của phổi vì nó hạ cơ hoành xuống và làm cho dây phổi dài ra. Nhờ vậy phổi hấp thụ khí trọn vẹn.
Khi luyện nội công, ta hít không khí vào đầy ngực , phồng bụng lên, nhịp nhàng đưa 2 cánh tay lên gân, càng lúc càng gồng cứng các bắp thịt và nằm chặt 2 quả đấm cử động theo những động tác, miệng ngậm giữ hơi thở ở bụng bằng thời gian hít vào rồi thở ra, lọc sạch thán khí. Khi ta cố vận khí đưa xuống đan điền, tập trung trí tưởng tượng nâng một tảng đá nặng một ngàn cân , hoặc xô đổ trái núi, thân thể căng cứng thì sức lực của ta tăng lên rõ rệt. Vận sức xuống đan điền rồi dồn hơi thở ra tấn công là một bí thuật làm tấn công thêm hiệu quả. Cần nhớ khi thở ra nét mặt thản nhiên, thân thẳng đứng mà mềm mại, ung dung. Người tập nội công toát ra một vẽ đường bệ, đó là nhờ họ giữ được thân ở thế thẳng đứng. Ở họ hiện ra sự bình thản, khiến khi gần họ, người ta cảm thấy vững lòng, bởi vì họ đã tạo ra được sức mạnh của tự tin, chỉ dựa vào chính bản thân mình. Dáng điệu trang nghiêm và cương nghị ấy là một nguyên động lực tâm lý quan trọng trong nghệ thuật sống.
Dưới đây là căn ý:
1. Võ thuật đòi hỏi phải di động, nhưng trước hết, nội công đòi hỏi phải tỉnh tại.
2. Muốn chế phục địch thì phải có sức mạnh, nhưng trước tiên nội công đòi hỏi phải nhu nhã.
3. Chiến đấu cần nhanh nhẹn, nhưng bắt đầu, nội công đòi hỏi phải từ tốn.
Có nắm vững được ba yếu quyết dẫn đạo nầy, công cuộc luyện tập mới đạt kế quả mong muốn.

III. KHÍ CÔNG: 

Luyện khí công là luyện sinh khí và hành khí, tức là luyện làm sao cho chân khí sinh ra một cách đầy đủ, đồng thời vận hành nó luân chuyển khắp cơ thể để tăng cường sức khoẻ, chống bệnh tật và phát huy các tiềm năng của con người.
Khởi đầu tập khí công, thở hai thì (thở bụng). Khi thở hít vào bụng phồng lên đưa khí xuống tận bụng dưới (đan điền) rồi thở ba thì. Ðến khi đã biết thở bốn thì: Hô, Hấp, Vận, Bế thông thạo mới có thể đi vào luyện khí ngũ hành để thể nghiệm xem có nên tiếp nữ hay dừng lại ở thể bốn thì. Nên nhớ: Phải luyện tập từng bước một, vội vàng sẽ dẫn tới : ?Tẩu Hỏa Nhập Ma”.

TÍNH ÐỘNG CỦA KHÍ CÔNG:

Trong khí công có tư thế Ðộng và tư thế Tỉnh. Ðộng vì cử động di chuyển. Tỉnh vì bất động và vắng lặng. Trên thực tế, bất động chỉ là bề ngoài, còn bên trong là vận khí, là luyện khí, là biến hóa. Biến tỉnh thành khí, biến khí thành Thần.
Khí công có công dụng làm tăng cường sự lưu thông của khí, bằng đả thông kinh mạch, bằng mở rộng các Huyệt Ðan Ðiền, để cuối cùng Ý đi tới đâu, khí đi tới đó: Ý, Khí , Lực hợp nhất.
Cái động trong khí công là cái động có nhịp độ để trợ giúp tiêu hoá, tăng cường lưu thông huyết và ngừa bệnh. Trên thực tế, vận động có nhịp độ là nương theo quy luật tự nhiên của các cơ quan: Tim đập, tuần hoàn máu, co bóp của ruột và niệu quản, hơi thở, kinh kỳ, thức ngủ...đều có nhịp độ.
Tất cả những phương pháp khí công từ thấp đến cao, đều thể hiện tính động có nhịp độ. Thư giản toàn thân và Tâm Bình.

BIẾN HÓA TRONG KHÍ CÔNG

Trên con người, những hiện tượng sinh lý và sinh hoá biểu hiện của sự sống, mà bản chất của sinh lý và sinh hoá là biến hóa: Biến hoá vật lý, sinh học, hoá học, khí công nương theo các hiện tượng này để lập thành những phương pháp tập luyện và như vậy cũng phải biến hoá, bởi vì trong Tỉnh Công cũng như Ðộng Công đều có vận khí và luyện khí, có chuyển hóa khí Hậu Thiên thành Chân Khí, rồi chuyển chân khí thành khí đặc thù, phù hợp với mỗi cơ quan và mỗi loại tế bào. Luyện TINH - KHÍ - THẦN là biến hoá. Luyện Tinh thành Khí, luyện Khí thành Thần là biến hoá cao độ.
Lịch sử loài người là một quá trình biến hoá với mức độ sâu rộng khác nhau qua các thời đại. Một kiếp nhân sinh là một chuỗi biến hoá không ngường. Ðộng là sống. Trong vũ trụ mọi sự vật đều sống động. Cây luôn vươn lên cao hoa75c tàn lụi để chuyển hoá. dòng nước luôn chảy từ nguồn lạc ra sông ngòi. thời gian trôi đi không bao giờ ngừng. Quả địa cầu xoay vần không hề ngưng nghỉ. Nhưng động ở đây tuân theo một số quy luật trong đó có quy luật Phản Phục, tức trở về gốc, ngoài quy luật Biến Hoá và quy luât Quân Bình.

CHU TRÌNH PHẢN PHỤC TRONG DỊCH HỌC

Sự vật biến động đi từ bất dịch qua giao dịch tới biến dịch (hay biến hoá) , rồi lại trở về bất dịch. Trong sự vận hành của Âm - Dương nạp địa chi, nhịp Sinh - Ấu - Tráng Lão, hay Sinh - Thành - Bệnh - Tử đã nói lên cái lý của PHẢN PHỤC.
Phản phục trong vũ trụ thể hiện trong nhịp sinh học Ngày - Ðêm hay bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Ðông. Sao hôm rồi Sao Mai. Mặt trời lặn rồi lại mọc. Trăng Non rồi đến Trăng Già và ngược lại, cứ thế liên miên bất tận. Cây sinh Nụ, Nụ sinh Hoa, Hoa sinh Trái, Trái lại sinh Cây. Nước thành Hơi, Hơi thành Mây, Mây biến hoá thành Mưa. đó là chu trình Phản Phục trong Dịch Học.
Luyện khí công chủ yếu là luyện khí Hậu Thiên, tức Thủy Cốc khí thành Chân Khí tụ tại Ðan Ðiền. Rồi dẫn Chân Khí từ Ðan Ðiền tới các Phủ, Tạng để thành Vinh khí hay Ngũ Khí. Sau cùng lại dẫn Ngũ Khí trở về Ðan diền để trở thành Chân Khí. do đó, trước khi chấm dứt một buổi tập, bao giờ cũng làm động tác thu khí tản mạn trong cơ thể theo Nhâm mạch trở về Ðan điền.

TƯ THẾ VÀ TINH THẦN TẬP NHU KHÍ CÔNG QUYỀN VOVINAM:

Nhu khí công quyền là động công thở hai thì. Trong khi đi quyền, đầu luôn thẳng với cột xương sống, mắt luôn nhìn thẳng và luôn hướng theo chân bước. Không được dùng sức lên gân, khí huyết khó lưu thông. khi thở phải theo nhịp nhẹ nhàng, điều hoà, hít vào ngực phồng lên đưa khí xuống tận bụng dưới (đan điền). Nếu khí tụ ở ngực không xuống bụng được, sẽ làm cho trên nặng dưới nhẹ dễ lao chao mất thăng bằng. Eo là chổ chủ yếu nhất của thân mình, phải buông eo tự nhiên cho dáng uyển chuyển mà không cố ý mới tạo được sức mạnh thực sự của eo, không dùng sức mà vẫn có sức.
Khi đi quyền, nếu toàn thân đều toạ trên 2 đùi phải thì đùi này là thực, đùi trái là hư. Khi hư thực có thể phân biệt từng bước chân thì sự chuyển động mới linh hoạt, không phí sức. Mọi cử động tay chân đều khoan thai nhịp nhàng, thân thể buông thả tự nhiên theo nhịp thở để huyết mạch được thong dong tự quản dẫn khí chẩy vào xương cốt mà khinh linh biến hoá.
Thân thể con người có kinh lạc như rạch mương trên đất, nếu khơi thông thì nước có thể chảy, kinh lạc không tắt nghẽn thì khí thông. Nếu không dùng lực mà dùng ý, thì Ý tới là Khí tới như vẫy mời khí huyết liên tục lưu chuyển khắp toàn thân không bao giờ ngưng trệ. Tập lâu ngày nhu nhuyễn, thuần thục thì thân mình uyễn chuyển tự nhiên, tay chân mềm mại mà cử động lại rắn rỏi, sắc cạnh như tay thép bọc bông gòn. Tất cả đều trôi chảy nguyên vẹn một hơi, thần khí linh động thể hiện lên á “kinh lạc?
Tinh thần là chủ soái, điều động tương liên hư thực, tâm thần khai hợp. thần thái người đi nhu khí công quyền đã đạt thì thực hư huyền ảo, mọi động tác đều tự nhiên nhi nhiên, khoáng hoạt, tâm ý cùng khai mở, chân tay điều hợp thành nhất khí (một hơi). Nhu khí công quyền dùng ý điều khiển cơ bắp chứ không dùng sức nên có thể đi hoài liên miên không dứt mà không mỏi mệt, lúc nào muốn nghỉ tập thì cứ nghỉ, hơi thở vẫn điều hòa. Ðó là dùng tỉnh chế động, quyền đi càng chậm càng tốt, vì càng chậm càng giúp hô hấp được dài lâu, khí đan điền càng trầm mặc mà không có sự nở trương của huyết mạch, tâm thần càng nhu hòa gắn bó.
Tóm lại toàn bộ khí công gồm:
VẬN KHÍ: Di dộng khí trong cơ thể tới một vùng, một cơ quan hay dọc theo kinh mạch.
PHÓNG KHÍ: Luyện tập liên tục có nguồn khí lực dồidào. Nam tay trái trước, nữ tay phải trước đưa lên ngang ngực. Lòng bàn tay hướng về phía trước, từ từ đẩy thẳng về trước, thở ra rồi thu về.
TRUYỀN KHÍ: Phóng khí hay phát khí, chủ yếu bằng bàn tay qua huyệt LAO CUNG, nhằm hai mục tiêu; TRỊ BỆNH, CHIẾN ÐẤU. Ðể thực hiện được điều này đòi hỏi công phu khổ luyện lâu dài để có THẦN LỰC vững chắc với một tính tình thực sự khiêm tốn, nhu nhã, vì phát khí đúng là con dao hai lưỡi sắc bén, cứu người mà cũng giết người đấy. Khi ta chủ trương luyện phát khí là tích lũy khí lực để tạo sức mạnh tự chữa bệnh và luyện khí thành thần tới bực thượng thừa, chứ không chỉ để chiến đấu. Phát khí làm tiêu hao năng lượng của bản thân nhà khí công nên phải giới hạn về người đến chửa bệnh và tuyệt đối không được phát khí thị uy chiến đấu khi có thể tránh được.
TRUYỀN NỘI LỰC: Muốn truyền nội lực phải có nội lực dồi dào, thành thạo các phương pháp luyện khí, biết tập trung tư tưởng cao độ, thuộc vị trí các đại huyệt. Ngoài ra cần biết chẩn đoán bệnh, đặt mối quan hệ giữa cơ quan mắc bệnh và các kinh mạch, mới khai thông kinh mạch liên hệ với các huyệt có hiệu quả.
Khi truyền nội lực, đặt hai ngón tay trỏ vào huyệt định khai thông, tập trung tư tưởng vận khí xuống đan điền, rổi dẫn kh1i vào hai bàn tay hay hai ngón tay trỏ, dùng trí tưởng tượng đưa khí của bản thân mình chạy sang người tiếp nhận rồi ngưng thở, vận khí hồi phục. Nhữn gnhà khí công điêu luyện thượng thừa vẫn có thể thở tự nhiên, chỉ cần dẫn khí bằng ý.

PHƯƠNG PHÁP ÐIỀU TÂM:

TÂM: Có thể như con ngựa bất kham.
NHIẾP TÂM: Là lồng dây cương vào mõm muốn dắt nó đi đâu cũng được. Bắt ý nghĩ chuyển động theo ý. Ức chế mọi suy nghĩ. Lìa vọng khí khởi vọng.
TRỤ TÂM: Là buộc dây cương vào một gốc cây để nó không đi chổ khác được.
QUÁN TƯỞNG: Là một kiểu trụ tâm vào một trong các đại huyệt, như huyệt:
ÐAN ÐIỀN THƯỢNG: (Bách hội) THẦN = ấn đường
ÐAN ÐIỀN TRUNG : (Khí Hải) KHÍ= Thần khuyết
ÐAN ÐIỀN HẠ: (Quan nguyên) TINH= Hội âm.
Cũng có thể trụ tâm vào huyệt Lao cung hoặc Dũng tuyền, vào vùng trị bệnh với mục đích vận khí đưa huyết vào để điều trị. Ngoài ra còn có thể trụ tâm vào một vật thể thường là một bông hoa đang nở, một cây xanh tươi, một bức tranh đẹp, một dòng sông êm đềm với mục đích làm lắng dịu tâm hồn. Hoặc vào những từ có nghĩa sâu sắc, những đoạn văn hay, lời thơ đẹp với mục tiêu thưởng ngoạn làm thư thái tâm hồn.
Quán tưởng là xử dụng năng lực của tư tưởng, của ý chí để nghiền ngẫm một vấn đề cho thấu suốt (hay tưởng tượng một vấn đề gì để điều đó trở thành sự thật). quán tưởng chính yếu của khí công là:
*. Ðiều thân: Thân thẳng như đồng trụ, vũng như bức tượng, trơ trơ như gỗ đá.
*. Ðiều tâm: Không thấy, không nghe, không suy nghĩ. quán cho tâm hoàn toàn vắng lặng, thanh thản, tươi vui, sống hoà mình với mọi người.
*. Ðều tức: tưởng tượng như ép phế nang tống độc, rồi mở ra dẫn khí vào, phải hình dung 400 triệu phế nang dàn trải ra diện tích khoảng 200 mét vuông.

IV. THẦN CÔNG:

Khi luyện tập nội, ngoại, khí công đã thành tựu, muốn có thể VẬN KHÍ - PHÓNG KHÍ - TRUYỀN KHÍ thành công phải trường trai, tiết độ và tiết dục mọi mặt, vượt trên mọi danh lợi. Nội khí khi được phát sinh thực sự sẽ cung cấp đầy đủ cho nguồn nội lực, thì toàn bộ kinh mạch sẽ được khơi thông, tâm thần được thanh lọc sẽ thanh thoát, có thần lực,thần thái ung dung, tự tại. Người tập thành đạt nhân, sống một đời sống bình thường mà siêu thoát.



Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

SƠ CỨU GÃY XƯƠNG


Gãy xương là một tình trạng mắc tính liên tục của xương, biểu hiện được nhiều hình thức từ một vết rạn cho đến một sự gãy hoàn toàn của xương, nguyên nhân của gãy xương thường gặp trong sinh hoạt, lao động, thể dục, thể thao, tai nạn... một khi gãy xương nếu không được sơ cứu đúng có thể làm nặng thêm tình trạng của bẹänh nhân thậm chí có thể gây tử vong cho nạn nhân. Như các trường hợp gãy xương kín nếu không sơ cứu đúng có thể biến thanh gãy xương hở, hoạc gãy xương không kèm theo sốc (shock) nếu không được bất động tốt có htể gây shock cho bệnh nhân. Vì vậy việc phát hiện sớm gãy xương, sơ cứu đúng sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều trị gãy xương sau này.
Trong phạm vi bài này chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số dấu hiệu chung của gãy xương, và nguyên tắc sơ cứu gãy xương, phương pháp cố định gãy xương.

I. TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU CHUNG CỦA GÃY XƯƠNG:

Nạn nhân có thể cảm thấy hoặc nghe thấy tiếng kêu Răng Rắc của xương gãy. 
Ðau ở chổ chấn thương hoặc gần vị trí đó. Ðau tăng khi vận động. 
Có cảm ứng tại chổ gãy xương khi ấn nhẹ lên vùng bị thương. 
Biến dạng tại vị trí gãy: Ví dụ chi gãy bị ngắn lại gập góc hặc xoắn vặn.. 
Khi khám có thể nghe hoặc cảm thấy tiếng lạo xạo của hai đầu xương gãy cọ vaò nhau. 
Không được cố gắng tìm dấu hiệu này vì làm nạn nhân rất đau, có thể có triệu chứng của shock. Tình trạng của shock thường xãy ra và được nhận thấy rõ trong các trường hợp gãy xương đòn hoặc vỡ xương chậu. 

II. CẤP CỨU VÀ CHĂM SÓC CẤP CỨU GÃY XƯƠNG NÓI CHUNG:

1. Mục đích: 

Ðiểm mấu chốt các xử trí cấp cứu ban đầu đối với bất kỳ một trường hợp gãy xương nào là tránh sự vận động ở tại điểm chấn htương (bất động).
Sự vận động có thể làm đau hơn và thường làm cho tổn thương nặng hơn, trong tất cả mọi trường hợp đều phải chuyển bệnh nhân tới bệnh viện.

2. Hành động: 

Không được di chuyển nạn nhân trườc khi sơ cứu trừ trường hợp thực sự cần thiết. Làm cho nạn nhân càng thoải mái càng tốt, nếu phải chuyển nạn nhân thì phải hết sức cẩn thận, nhẹ nhàng để tránh gây tổn thương thêm và đau tăng lên.
Khi sơ cứu bất kỳ mọi trường hợp gãy xương nào cũng phải tuân theo những nguyên tắc sau đây:
Phải giải quyết các vấn đề về hô hấp, chảy máu nặng và tình trạng bất tỉnh trứơc khi sơ cứu gãy xương.  
Chống đau cho nạn nhân: Tuyết đối không vận động phần bị tổn thương nếu không cần thiết. Nếu có điều kiện thì nên phong bế Novocain quanh ổ gãy hoặc tiêm morphine (nếu không có tổn thương sọ não, ở bụng .. kèm theo). 
Băng kín các vết thương nếu có. 
Cố định tạm thời gãy xương 
Phòng chống shock cho nạn nhân. 
Thường xuyên quan sát, theo dõi nạn nhân về tình trạng toàn thân đặc biệt là tình trạng tuần hoàn ở phía dưới ổ gãy. 

3. Cố định tạm thời gãy xương:

a. Nguyên tắc: 
Phải cố định trên ỗ gãy một khớp và dưới ỗ gãy một khớp. 
Buộc phần gãy dựa vào một vật cứng và thẳng, có thể buộc vào phần lành của cơ thể. 
Giữ phần gãy ở tư thế cơ năng. 
Phải đệm lót tốt. 
Không băng rực tiếp lên ở gãy và lên da. 
Băng trên ổ gãy và băng dươiù ở gãy trước (thắt nút băng ở trên ổ gãy trước). 
Phải luôn luôn thắt nút băng ở cạnh trên của nẹp hoặc ở bên phía không bị tổ thương. 
Băng vừa đủ chặt để tránh sự di động nhưng không được băng chặt quá gây cản trở tuần hoàn. 
b. Dụng cụ: 
Nẹp: Phải đảm bảo đủ độ dài, rộng và dày.
Trong điều kiện không có nẹp chính qui thì sử dụng nẹp gổ, nẹp tre hoặc bất kỳ vật liệu gì sẳn có tại nơi tai nạn có thể sử dụng làm nẹp được. 
Bông: dùng để đệm lót vao nơi đấu nẹp hoặc những nơi xương cọ sát với nẹp. Nều không có điều kiện thì có thể dùng vải hay quần áo để lót. 
Băng: Dùng để buộc cố định nẹp, băng phải đảm bảo rộng bản, dài vừa phải, bền chắc. Trong trường hợp không có băng có thể dùng các loại dây thay thế. 

III. CỐ ÐỊNH TẠM THỜI MỘT SỐ GÃY XƯƠNG:

1. Gãy xương hàm dưới: 

Dùng băng cà vạt dưới hàm: Vạt ngắn, vạt dài có thể dùng khăn tam giác, kéo vạt băng dài qua đầu, bắt chéo hai góc băng ở thái dương, quấn 2 đầu băng ngược chiều quanh trán và sau gáy, buộc nút ở phía đối dịên (ở thái dương đối diện (ở thái dương đối diện).

2. Gãy xương đòn: dùng nẹp chử T:

Cho nạn nhân ưỡn ngực, hai vai kéo về phía sau. 
Ðệm bông không thấm nước hoặc vải dưới hai nách và hai bã vai. 
Ðặt nẹp chử T sau vai: Nhánh doc dài theo cột sống, nhánh ngang áp sát vào vai (Nhánh dọc cần dài quá thắt lưng, nhánh ngang cần to bản và dài qua khỏi vai). 
Quấn băng vòng tròn từ nách qua vai, buôc nút ở bả vai, có thể dùng băng to bản. 
Dùng băng cuộn vòng thắt lưng, buộc nút ở cổ không vướng. 

3. Gãy xương cánh tay:

Dùng nẹp: Cánh tay để sát thân cẳng tay vuông góc với cánh tay. 
Đặt 2 nẹp: Nẹp trong từ hố nách đến quá khuỷu tay, nẹp ngoài từ qua vai đến quá khớp khuỷu 
Dùng 2 dây to bản buộc cố định nẹp 1 ở trên 1 ở dưới ổ gãy. 
Dùng khăn tam giác đỡ cng tay treo trước ngực. 
Bàn tay cao hơn khuỷu tay. 
Dùng khăn to bản băng cánh tay vào thân, buộc nút rước nách bên lành. 

4. Gãy xương cẳng tay:

Cẳng tay để sát thân, vuông góc với cánh tay. 
Ðặt 2 nẹp: Nẹp trong từ lòng bàn tay đến nếp khuỷu, nẹp ngoài từ đầu ngón tay đến quá khuỷu. 
Dùng ba dây to bản buộc: bàn tay, thân cẳng tay ở trên dưới ổ gãy. 
Dùng khăn tam giác đỡ cẳng tay treo trứơc ngực: bàn tay cao hơn khuỷu tay. 

5. Gãy xương đùi: Cần 2 người phụ

Giữ chân ở tư thế chức năng: Bàn chân vuông góc với cẳng chân, cần nâng đỡ nhẹ nhàng đúng như phương pháp để tránh shock. 
Chú ý chống shock cho nạn nhân. 
Ðặt 2 nẹp: Nẹp trong từ bẹn đến quá gót chân: Có thể thay thế nẹp trong bằng chân lành và đệm lót giữa 2 chân bằng chăn mỏng. 
Nẹp ngoài từ nách đến quá gót chân. 
Dùng 8 dây rộng bản để buộc cố định nẹp: Cần đệm lót những chổ để vướng vào chổ lõm tránh buộc dây đè lên chổ gãy: 
1 dây trên chổ gãy 
1 dây dưới ở gãy 
1 dây ngang ngực 
1 dây ngang hông 
1 dây dưới gốc 
1 dây cổ chân 
2 dây buộc 2 chi vào với nhau 

6. Gãy xương cẳng chân:

Giữ cẳng chân vuông góc với bàn chân 
Ðặt 2 nẹp dài quá gót đến giữa đùi, một ở trong, một ở mặt ngoàøi chân 
Lót bông ở đầu nẹp và đầu xương. 
Dùng 4 dây rộng bản buộc cố định nẹp trên khớp gối, dưới khớp gối cổ chân và bàn chân. 
Băng số 8 bàn chân với cẳng chân. 
2 dây buộc chi lành và chi gãy. 

BS. Nguyễn Anh Tuấn & BS Nguyễn Vinh Quang (Phú Yên)

TÁC PHONG CỦA MỘT HUẤN LUYỆN VIÊN VIỆT VÕ ĐẠO

(Võ sư Lê Hải Bình - đang thị phạm kỹ thuật cho các võ sinh VoViNam)

Hiện hữu trong đại gia đình Việt Võ Đạo, đó là một vinh dự cho mỗi người chúng ta. Là một võ sư hay huấn luyện viên của môn phái, mỗi chúng ta càng cảm thấy tự hào, vì mình chính là những người đang ươm những mầm non cho tương lai môn phái.

Từ khi được bước chân vào mái trường Vovinam Việt Võ Đạo, chúng ta được các bậc Thầy đi trước hướng dẫn không chỉ võ thuật mà cả tinh thần võ đạo. Đó là đạo sống của mỗi Việt Võ Đạo Sinh. Đó là cách đối nhân xử thế phù hợp với đạo làm người, nêu cao danh dự của cá nhân, của môn phái và Tổ quốc mến yêu.
Để thể hiện được tinh thần võ đạo của môn sinh, chúng ta cần phải cho mọi người thấy được một tác phong tốt, không những chỉ ở võ đường hay sân tập, mà còn ở khắp mọi nơi. Là một võ sư, huấn luyện viên chúng ta cần đặt yêu cầu khắc khe hơn nữa. 
Trong gia đình phải là một con người ngoan hiên, hiếu thảo, biết kính trọng giúp đỡ người trên, thương yêu đùm bọc người dưới. Là một người cha ( hay một người mẹ) biết lo lắng vun sới cho hạnh phúc gia đình, biết chăm lo dạy dỗ con cái nên người và nhận thấy được trách nhiệm của mình trong cái gia đình ấy.
Ngoài xã hội, đối với bạn ta cần phải chân tình. Bạn bè là một vốn quý, là những người có thể thấu hiểu và giúp đỡ ta rất nhiều ở một phương diện nào đó trong cuộc đời. Sống mà không có bạn, chẳng khác gì ta đang lạc lõng giữa biển đời mênh mông.
Trong công việc, mỗi người mỗi khác do hoàn cảnh hay sự chọn lựa. Nhưng dù ở cương vị nào, là cấp lãnh đạo hay người nhân viên bình thường, là một doanh nghiệp lớn hay một người buôn bán lẻ, là một cấp chỉ huy hay.


 Võ sư Phạm Văn Ân

PHÉP THỞ TRONG THỂ DỤC DƯỠNG SINH (VIỆT TÀI CHI)


Con người, từ khi vứa mới thụ thai, đã được Thượng Đế dùng cuống rún để nhận hơi thở qua đường hô hấp của Mẹ. Khi lọt lòng Mẹ với ba tiếng khóc chào đời, cũng là lúc tiếp nhận khí trời bằng hai lá phổi,và con người chỉ ngừng thở khi nhắm mắt lìa đời ! Như thế hơi THỞ đã theo ta từng giây, từng phút.... Trong mọi không gian, trong mọi công việc, lúc thức cũng như lúc ngủ, lúc ăn, hay lúc nói, lúc lên rừng, hoặc lúc xuống biển, lúc ở trời Tây, Bắc hay khi ở trời Nam, Đông..... Trong suốt cuộc đời tùy theo dài ngắn. Thế mà giờ này có người bảo ta phải học THỞ ? 
Trong cuộc sống, con người đã mê lầm khi nghĩ rằng: Có Tiền mua Tiên cũng được. Nên từ khi biết thưởng thức hương vị cuộc đời, là con người mải mê đi tìm tiền, say mê đến độ bỏ ngoài tai dù là tiếng Chúa hay lời Phật ! Vì quá say mê làm tiền, con người đã tạo nên những mâu thuẫn, thù oán và rất nhiều thủ đoạn tàn ác đến không còn cả nhân tính rằng;
Sau đây, chúng tôi xin trích một đoạn trong đoản văn: Trường Sơn Mây Trắng. của Ngọc Thủy, tuy không xác quyết là thật. Nhưng chúng tôi tin là có thật; đoạn văn như sau:
Tôi bỏ bữa cơm chiều để có chút thời giờ tìm thăm anh chị Hiền, vì hơn ba năm trước khi ghé thăm sư Bà ở chùa Linh Phong - Đà Lạt, được biết sau khi anh chị bán biệt thự trên đường Quang Trung và Duy Tân, anh chị rời bỏ hẳn Đà Lạt để về Nha Trang lập nghiệp. Mười năm qua, anh chị đã tạo được hai khách sạn Đông Phương I & II, nhưng tiếc thay anh Hiền đã phải nằm một chỗ, không đi lại được sau một cơn stroke cách đây gần ba năm. Thế mới biết, sức khỏe vẫn là điều quí giá cần thiết hơn cả. Có danh lợi bạc tiền, nhưng không còn sức khỏe cũng chẳng hưởng được gì hơn. Ngày tháng chỉ còn ngồi trong khung cửa chật hẹp đếm thời gian đi qua. Mọi vui thú bên ngoài cũng đành gác bỏ. Anh như thế, chị cũng đành phải nén lòng quanh quẩn cuộc sống bên anh, dù đủ sức, nhưng đâu nỡ hưởng vui riêng một mình. 
Đọc qua đoạn văn trên, chúng ta mới hiểu câu: Có Tiền mua Tiên cũng được. đã không hoàn toàn đúng cho trường hợp này. Thế thì sức khỏe phải là điều quí nhất trong cuộc đời, có sức khỏe khi đói ăn củ khoai cũng thấy ngon; không sức khỏe ăn cỗ yến cũng thấy xoàu : 
Sức khỏe có được, trước nhất do Trời ban cho qua gene của cha mẹ, sau nhờ tập luyện, ăn uống điều độ, giữ gìn vệ sinh... 
Ngoài những điều kể trên, con người cần phải biết học phép thở để đạt được hiệu năng tối đa. Con người chúng ta từ thuở xa xưa cho đến ngày nay đã tốn khá nhiều công sức, tiền của và thời gian để có thể chế biến các động vật và thực vật thành những thực đơn khoái khẩu, bổ dưỡng. Nhưng chẳng mấy ai suy nghĩ cách tiếp thu dưỡng khí sao cho bổ ích nhất trong hơi thở hằng ngày ? 
Con người có thể nhịn ăn vài ba ngày, nhịn uống đến mười mấy tiếng được; nhưng khó có người nhịn thở được năm mười phút, nếu không có tập luyện... Như thế mới biết, trong cuộc sống hơi thở phải được chú ý hàng đầu... Rất may khí trời đầy rẫy, không phải mua bán... Nhưng làm sao chúng ta có thể đem được thật nhiều khí trong lành oxyzen (dưỡng khí) vào thay đổi máu huyết từ đen ra đỏ đi nuôi cơ thể; cũng như thải ra tối đa chất thán khí (carbonic). 
Mười mấy năm nay, nhiều chuyên gia về hít thở của Hoa Kỳ cũng như của Tây phương đã chứng nghiệm rõ điều này. Một trong những chuyên gia đó là James Gordon, giáo sư thực nghiệm và phân tích tâm lý của phân khoa y thuộc Georgetown University, cũng là giám đốc của đặc khu Columbia, đã chính thức khẳng định rằng: Thở từ tốn và sâu là liều thuốc duy nhất chống lại sự căng thẳng của cơ thể và tâm tríịnh 
Như trên đã trình bày, thì ngay từ lúc thụ thai chúng ta đã phải thở, và khi lọt lòng Mẹ chúng ta đã biết thở; nhưng cả hai cách thở trên : Một là tiên nguyên, hai là tự nhiên... Thế nên muốn thở sâu, thở đúng cách, chúng ta cần phải tập thở, hay luyện thở. 
Luyện thở sẽ tác động đến các hệ thần kinh, tuần hoàn, hô hấp, bài tiết... Tại trung khu thần kinh võ não và các cơ bắp luôn có sự quan hệ khắng khít... Khi tinh thần căng thẳng thì các cơ bắp cũng căng thẳng và ngược lại khi tinh thần thoải mái thì các cơ bắp cũng mềm mại. Vì thế, khi luyện thở chúng ta dùng ý dẫn khí, đưa máu huyết lưu thông trong mọi ngõ nghách sâu thẳm nhất của cơ thể. Đặc biệt dùng khí xoa bóp, cũng như đánh tan các làn mỡ bao bọc tim, gan, phèo, phổi. Và cũng chính ý và khí trong sạch sẽ đẩy những hạt mỡ đang mỗi ngày đóng trong những mạch máu, mà ta gọi là cholesterol (mỡ trong máu)... Khi mỡ trong máu tan, thì tim ta sẽ đập một cách bình thường và sẽ hạ áp huyết xuống. Hơn nữa, nhờ luyện thở sẽ giúp cho các cơ bắp của tim, gan, dạ dày, thận, lá lách và ruột luôn khỏe để có thể hoạt động hữu hiệu, sàng lọc hết những chất liệu không tốt ra ngoài để chống các bệnh tiểu đường, táo bón, nhức đầu kinh niên..v..v... 
PHÉP THỞ TRONG THỂ DỤC DƯỠNG SINH: 
Khi nói đến thở là ta phải nghĩ ngay tới không khí, không khí đầy rẫy trong không gian, không khí không cần phải mua bán đổi chác... Nhưng muốn dùng không khí có hiệu quả, chúng ta cần biết tận dụng cách nào dể có thể đem không khí tối đa vào trong cơ thể, nhờ không khí (oxyzen) biến đổi máu huyết thành trong sạch, tốt lành đi nuôi cơ thể. Nhờ biết cách thở, chúng ta có thể thải ra ngoài tối đa, nếu không muốn nói là hoàn toàn các chất thán khí (carbonic) có hại cho cơ thể. 
Luyện thở là một phương pháp hô hấp dưỡng khí, khơi thông kinh mạch, điều chỉnh khí huyết trong cơ thể để con người có được âm dương cân bằng: Tinh, Khí, Thần hợp nhất, lục phủ ngũ tạng điều hòa, nhờ đó phòng chữa bệnh, tăng sức khỏe, kéo dài tuổi thọ.
Khi luyện thở trong Thể Dục Dưỡng Sinh, điều tiên quyết là Tâm phải định (rũ bỏ mọi phiền lụy, lo lắng, mưu cầu..v..v...). Sau đó, cần thư giãn mọi cơ bắp, hít sâu xuống đan điền, để cho Huỳnh Cách Mô mở rộng có thể chứa nhiều dưỡng khí... Dùng Ý dẫn khí chạy dọc theo đường Nhâm mạch và Đốc mạch, khai thông kinh mạch, nhờ đó năng lượng hoạt động của Tâm, Trí , Thể được thanh lọc, nâng cao. 
Luyện thở đúng cách có thể dùng chân khí để tiếp trợ cho mọi cơ phận trong cơ thể, giúp các cơ phận đó khỏe mạnh thêm để hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp. Khi các cơ phận: Lục, Phủ, Ngũ tạng hoạt động tốt đẹp sẽ là cách hay nhất để phòng bệnh và chữa bệnh.  
Song song với cách luyện thở, trong Thể Dục Dưỡng Sinh còn có nhiều động tác êm nhẹ giúp luyện tập gân cốt và các khớp xương được vận chuyển nhịp nhàng, nhờ đó máu sẽ được cung cấp đầy đủ để các gân sụn được bồi bổ, hầu tránh cacù bệnh rỗng xương, mòn sụn là các căn bệnh rất khó chữa, thường là phải mang những căn bệnh hiểm nghèo này suốt đời, dù ngày nay khoa học đã tiến bộ vượt mực. 
Gần đây các chuyên gia trong nghành y khoa TÂM - THỂ (mind - body medicine) nói rõ rằng chỉ có một số ít người trong xã hội Tây phương, các xã hội kỹ nghệ hóa sớm biết thở một cách đúng đắn mà thôi. Do đó, dù mệnh danh Hoa Kỳ và các nước Tây phương là các nước xã hội tân tiến mà trong đó cư dân đại đa số chỉ biết thở cạn bằng ngực (shallow chest breathers.). Nghĩa là họ chỉ dùng các phần trên và giữa của hai lá phổi để thở mà thôa 
Chỉ có một số ít người (hầu hết là các nhạc sĩ, ca sĩ và thể tháo gia) mới biết thở trọn vẹn bằng bụng để có nhiều dưỡng khí (oxyzen) nuôi các tế bào của họ. 
Thở bằng bụng: Do quan sát, chúng ta dễ thấy rằng: Một đứa bé thở, ta thấy bụng của đứa bé nhấp nhô lên, xuống đều đặn, chậm và sâu. Nhưng càng lớn tuổi, vì nhu cầu cuộc sống bon chen hằng ngày, con người chạy theo thời gian và tiền bạc nên hơi thở học cách đi tắt, thở ngắn đi, thở vừa đủ sống. Vì thế, trong máu huyết luôn luôn thiếu oxy (dưỡng khí ) và không bao giờ thải ra hết thán khí (carbonic). Cơ thể chúng ta như bộ máy xe được chạy bằng các chất liệu cặn bã, xấu dơ, vì thế các cơ phận trong con người rất mau bị trục trặc (dễ bị bệnh, mau già và con người ỷ y có bảo hiểm, nên giao phó cho các bác sĩ, thuốc men) .Nếu chúng ta có dịp nhìn những con chuột được các nhà khoa học, bác sĩ dùng làm thí nghiệm trong phòng LAB thế nào, thì khi chúng ta uống thuốc cũng là một cách thí nghiệm xem thuốc sẽ linh nghiệm ra sao? Và tất cả những tiền bạc mà chúng ta thu góp do chăm chỉ làm việc, tài năng, sáng kiến mà có được sẽ theo cách khám nghiệm của các vị bác sĩ chuyên chở vào nhà thương và các tiệm thuốc tây ! Nếu may mắn thoát chết, thì sau đó chắc chắn sẽ chẳng còn được như xưa. Ô hô hai tai ! Khi biết được thì cũng đã quá trễ. cha ông chúng ta dạy rằng : 
Phòng bệnh, hơn chữa bệnh ! Nhưng mấy ai nhớ mà thực hà Phò
Năm 1991, một cơ sở tên là Office of Alternative Medicine thành lập để gấp rút gia tăng phần nghiên cứu hiệu quả của các phương pháp trị liệu tân tiến và không theo truyền thống Tây y , nghĩa là không dùng thuốc để trị, mà dùng phương pháp thở để tạo thư giãn. 
Đến nay, cơ quan này đã bành trướng thành National Center for Complementary and Alternative Medicine trong National Institute for Health, nghĩa là gián tiếp công nhận thở trị liệu pháp, một trong những trị liệu pháp Tâm - Thân (Mind - Body therapies). 
Thở bụng có từ đâu ? 
Người xưa nhận thức đơn giản: Con người từ thiên nhiên mà đến, thế nên con người phải biết hòa vào thiên nhiên để sống... Đi thuận chiều với thiên nhiên thì sẽ có cuộc sống tự nhiên, lâu dài... Đi ngược chiều thiên nhiên thì chẳng khác nào đem trứng chọi vào đá, và chắc chắn sẽ mau tàn lụi... Con người nhờ KHÍ mà sống được. Khí tụ thì hình thành, khí tán thì hình mất. 
Và phương pháp thở bằng bụng là phương pháp thở tiên nguyên, thở bẩm sinh khi còn nằm trong bụng mẹ. Trải qua nhiều thực nghiệm kiến hiệu, thở bụng ngày nay đã trở nên một trị liệu pháp có thể thay thế cho thuốc: 
Thở bụng sâu và dài sẽ là cách tốt nhất làm cho Huỳnh Cách Mô mở rộng, chứa được tối đa dưỡng khí, hoán chuyển máu đen thành máu đỏ đi nuôi cơ thể. 
Thở bụng sâu và dài sẽ giúp cho phụ nữ bế kinh giảm 50% đau bụng thường trực.
Thở bụng sâu và dài sẽ giúp cho những ai hay lo âu, phiền muộn, giảm mức độ cáu gắt vô cớ (Stress). 
Nếu biết thở đúng cách theo phương pháp Thể Dục Dưỡng Sinh thì hơi thở sẽ đóng góp khá quan trọng trong việc chữa trị các căn bệnh trầm kha: Cao áp huyết... Mỡ trong máu... Nhức đầu kinh niên... Táo bón... Đau bụng khi có kinh... Tai biến mạch máu não..v..v... Ngoài ra, thở bụng là cách hay nhất để có thể làm tan biến những đám mỡ bọc chung quanh tim mạch, gan, thận, dạ dày, ruột non, ruột già..v..v... Nhờ đó con người sẽ xuống cân, tan mỡ, bắp thịt rắn chắc, da dẻ hồng hào, cuộc sống tươi vui, gia đình hạnh phúc, thoát được mối lo trường cữu. 
Võ Sư Nguyễn Tiến Hóa


HỌC VÕ CÓ THỂ PHÒNG BỆNH VÀ CHỮA BỆNH


Mùa Đông đang thực sự trở về với chúng ta; người ta bảo những cơn gió lạnh đã đem theo nhiều chứng bệnh, đặc biệt là bệnh cảm cúm hay còn gọi là bệnh Flu.!!!!! Con người từ cái buổi hồng hoang, từ lúc còn ăn lông ở lỗ; sống chỉ biết trông nhờ vào thiên nhiên.....Nhưng nhờ có trí khôn, nên dần dà con người đã tìm ra những cách thức có thể ngăn ngừa và chống lại các bệnh tật. Và Võ Thuật cũng là một trong những phương pháp đã được tiền nhân chúng ta xử dụng trong cách phòng bệnh và chữa bệnh.
Con người ai cũng muốn khỏe mạnh. Một nhà tỷ phú nọ trong lúc nằm trên băng ca để ý tá đẩy vào bệnh viện với căn bệnh trầm kha đã thốt lên rằng : Giờ đây, nếu tôi có thể đổi hết gia tài của tôi để lấy lại sức khỏe, thì tôi sẽ sẵn lòng. Nhưng đã quá rằng MÊ HỒN TRẬN !!!!! Trong chúng ta, chắc chắn đã hơn nhiều lần nghe hoặc nói đến ba chữ kể trên ? Con người bị mê muội trong cái trận pháp, mà tất cả các ngũ quan đều bị che phủ, bao trùm, tê liệt , làm cho điếc, đui, vô cảm, không còn nhận thức được bất cứ cái gì. Và Đức Phật đã gọi đó là BỂ KHỔ : Tham, sân, si . 
Nay con về đội niềm thương nổi nhớ
Cả một trời ly biệt cảnh trời quê
Dẫu lăn lóc khó quên đời viễn xứ
Nỡ phai mờ bao kỷ niệm ngây thơ
Nay con về tìm lại dấu chân xưa
Bên đám trẻ dập dìu sân trường cũ
Bù mỗi lúc giữa cô đơn ủ rũ
Nghe trong mình rền rĩ mối sầu đưa
Nay con về nghe lại tiếng ầu ơ
Nên ấm áp trái tim vừa trở lạnh
Cha dỗ, mẹ ru con xin lớn mạnh
Giữa biển đời vây khốn có bao phen
Nay con về cởi phiền muộn truân chuyên
Mặc nỗi vui của một thời đánh mất
Vất sau lưng nào bon chen tất bật
Quên hộ người nào gian dối trở trăn
Nay con về thôi rao bán lời than
Của người dân ngấy cảnh đời ly xứ
Hôn đất mẹ đã qua thời vân vũ
Thắp nhang trầm xin gió nhẹ rung lan
Dâng ngập lòng, lòng rung cảm miên man.
H.V 
Để trả lời cho tiêu đề : Học Võ có thể phòng bệnh và chữa bệnh? Chúng tôi xin khẳng định : Rất Có thể
Mùa Đông chỉ là sự thay đổi thời tiết của vũ trụ : Xuân, Hạ, Thu, Đông. Vì thế, dù mùa Đông có đem cái giá lạnh buốt xương về, nhưng thực không phải là đem những cơn bệnh theo về ! Bệnh của con người có thể xuất hiện trong cả bốn mùa, chẳng phân biệt mùa nào. Bệnh do con người bị yếu đuối từ tinh thần đến thân chất.
Riêng mùa Đông vì có gió lạnh, nên con người cứ phải co ro trong chăn ấm khi đêm về, hay rút mình trong các quần áo len nỉ khi phải ra ngoài . Và các bắp thịt thì co rút lại, không còn muốn hoạt động, mồ hôi tích tụ không thoát ra ngoài được, và những độc tố cứ thế mà tích lũy trong con người . 
Như chúng ta đã biết, con người cũng như mọi sinh vật đều được cấu tạo bởi hai nguyên tố Âm và Dương. Khi còn trai trẻ, hai cực âm dương còn nguyên vẹn cân bằng, nên cơ thể luôn được sung mãn vươn cao, các hàn khí khó có cơ hội xâm nhập; các vi trùng dù hung hãn đến đâu cũng khó quật ngã những bạch huyết cầu đã được trang bị đầy đủ vũ khí tối tân. 
Nhưng khi con người bước vào tuổi 40, là các cơ phận bắt đầu lão hóa, sự lão hóa tăng theo lũy tiến nếu tuổi trẻ trác táng trong đam mê tửu sắc, rượu chè...... Có người âm thịnh, dương suy hay ngược lại. Và khi hai cực âm và dương đã không cân bằng thì như người lái chiếc xe bị sì hơi, nếu không cấp thời thay bánh, lại cứ tiếp tục chạy thì hậu quả như thế nào chắc hẳn chúng ta đã nhìn thấy rõ.
Người học võ, nếu bắt đầu từ lúc tuổi thơ, thì sẽ như một thân cây được chăm sóc vun sới với đầy đủ phân bón hằng ngày..... Cây sẽ sung sức vươn cao, cành lá xum xê cho nhiều hoa trái; và khi thân cao thì rễ sâu, cành cây to lớn , thì dù cho có mưa to gió bão cũng khó có thể làm bật gốc, gẫy cành. Còn ngược lại, khi con người yếu đuối, thì chẳng cần phải là gió lạnh mùa Đông, chỉ một cơn gió lùa cũng có thể làm cảm lạnh, thương hàn.
Hơn nữa, người học võ nhờ tập luyện thường xuyên, nên gân cốt dẻo dai, bắp thịt săn chắc, và họ cũng hiểu rằng muốn có sức khỏe để thi triển võ học, thì phải tiết chế sắc dục, rượu chè. Đây cũng chính là nguyên nhân chính để giữ gìn sức khỏe; âm dương cân bằng thì bệnh trạng khó có cơ hội phát tác.

THẾ CÒN CHỮA BỆNH THÌ SAO ?

Thật ra câu trả lời này một phần nào đã được giải thích ở phần trên. Tuy nhiên chúng ta cần nói thêm : Khi con người đã bị mắc bệnh, có nghĩa là các cơ phận trong cơ thể đã bị lão hóa, hay đã bị các vi trùng xâm nhập, đánh phá ; nếu không được chữa trị khẩn cấp, thì tùy theo bệnh trạng có thể tiêu hủy con người trong nháy mắt.( Phần này chúng tôi không dám lạm bàn, vì nó là chuyên khoa của y - học). Tuy nhiên, như các phương pháp chẩn chữa theo Đông -y thường có câu ; Trong uống, ngoài thoa. Nghĩa là, dù có được uống thuốc, hay chữa trị bằng bất cứ phương án nào; thì điều trọng yếu của bệnh nhân vẫn là phải thức tỉnh để hiểu rằng : Tinh thần vẫn luôn phải sáng suốt, an định, chấp nhận thử thách, can đảm chịu đựng, và quyết tâm chiến đấu.
HỆ THỐNG ĐIỀU HÒA HƠI THỞ vô cùng quan trọng. Vì chính khi thở đúng cách sẽ tạo ra nhiều hồng huyết cầu đi nuôi cơ thể, khi hồng huyết cầu yếu kém sẽ như anh lính ốm-o, yếu đuối vác những vũ khí tối tân là thuốc men, thì dù có tối tân đến đâu mà không được xử dụng, thì cũng trở thành vô dụng mà thôi !!!!! Và sẽ như chiếc xe đã quá tải, các bộ phận đã bại xụi, thì dù có đổ xăng super, super cũng chẳng có thể làm cho xe chạy như thuở ban đầu . 
Quê mẹ chiều nao đứng đợi con
Mừng sao nước cũ núi sông còn
Vi vu tiếng sáo diều vang vọng
Hoa cỏ nghìn Thu đã dậy hồn
Làng đó, con đây mừng khấp khởi
Chiều lên, trăng dọi sáng lòng son
Tóc tỏ đã thấm mùi sinh tử
Trái đắng phong sương tới độ tròn
Con gọi, con đi tìm dấu cũ
Vườn rau ao cá những ngày xưa
Bướm hoa một thuở như danh tướng
Chó đá qua sông bóng vật vờ
Con về đau nhói buổi ban sơ
Nẻo cũ rêu phong dưới bụi mờ.
T.A.D 
Trở lại, học võ như một lá bùa nhiệm mầu, nó có thể hóa giải được rất nhiều những vấn nạn trong cuộc sống hằng ngày. Học võ không trực tiếp chữa những căn bệnh nan -y; nhưng có thể phòng chống các căn bệnh quái ác đó, nhờ có sẵn ý chí và sự quyết tâm, luôn biết tập trung tư tưởng vào những chủ điểm để phù trợ cho các phương cách chữa bệnh của các nghành y-khoa.
Người tuổi trẻ khi học võ sẽ dễ dàng thoát khỏi những sa ngã, những đam mê.
Người học võ luôn được học hỏi để chiến đấu trong những trường hợp ngặt nghèo, khó khăn nhất.
Nhờ luyện võ, con người luôn biết giữ nhiệt độ trong cơ thể được điều hòa, nên những căn bệnh thông thường cảm mạo khó có thể xâm nhập.
Người tập võ, khi luyện tập các kỹ thuật chiến đấu, cũng là lúc tập luyện cho các cơ khớp di chuyển nhịp nhàng, nhờ đó các bệnh thấp khớp, tê liệt thần kinh tọa sẽ khôntg dễ dàng để xuất hiện
Nhờ luyện tập võ thuật, biết vận dụng khí huyết đi nuôi khắp cùng cơ thể, đem tối đa khí Oxygen vào máu và hải tối đa khí Carbonic ra ngoài. Đây cũng chính là cách thay đổi khí huyết, mà những người bị bệnh nặng thường phải tới các phòng mạch, hay nhà thương để thay máu mỗi tuần; vừa đau đớn, nguy hiểm, và rất tốn tiền , còn lo lắng đến tột cùng; có những người đi thay máu nằm bên cạnh một người cũng trong tình trạng như mình, và trong lúc thay máu , người đó đã âm thầm từ giã cuộc sống !!!!
Người học võ, chẳng những đã có những kỹ thuật tự vệ hay tấn công khi cần thiết; mà còn luôn giữ cho máu được dung hòa, tránh các bệnh cao áp huyết, mỡ trong máu, suy tim, yếu thận...v...v...
Ngày nay trên thế giới, đặc biệt tại Hoa Kỳ, đời sống vật chất quá dư thừa và trong thức ăn thì có quá nhiều chất béo . Các kỹ thuật khoa học tân tiến, tưởng rằng đã giúp ích nhiều cho nhân loại, nhưng một mặt khác cũng đã tạo ra khá nhiều những biến chứng do ăn nhiều chất béo, lại thiếu sinh hoạt năng động từ trong nhà đến ngoài xã hội, thêm vào đó các phim ảnh, sách báo cũng đã và đang đầu độc giới trẻ rất nhiều và không ít cho tất cả chúng ta.
Con người từ thiên nhiên mà đến; khoa học kỹ thuật thực sự đã giúp ích cho đời sống chúng ta khá nhiều; nhưng không nên lạm dụng khoa học để đời sống chúng ta xa rời thiên nhiên.
Con người rất cần ánh sáng mặt trời.
Con người cần có đủ Oxygen trong hơi thở.
Con người cần hoạt động để khí huyết được điều hòa.
Và Võ Thuật chính là phương thuốc vạn năng phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân loại.
Xin hãy bình tĩnh ngồi suy xét lại, nhìn vào những bưu phí trả cho nhà thương mà các hãng bảo hiểm phải trả cho chúng ta. Thử làm một bài toán để thấy được tiền thuốc mỗi tháng chúng ta đang xử dụng là bao nhiêu ?
Ai cũng hiểu rằng : Việc đầu tư cho con cái chúng ta tại các trường học là việc rất đúng và quan trọng. Đó là việc mở mang kiến thức, một cách để dành văn hóa cho con cái chúng ta.
Nhưng việc đầu tư sức khỏe cho con cái chúng ta thì sao ? Xin hãy nhớ câu chuyện của nhà tỷ phú kia, để biết được sức khỏe sẽ quan trọng đến mức nào ?
Thưa quí vị độc giả thân thương, chúng ta có thể chia gia tài cho con cái. Chúng ta có thể hy sinh tất cả vật chất cho người mình yêu. Nhưng chắc chắn không ai có thể đem sức khỏe của mình cho con cái mình hay người mình yêu thương được. Trong những câu chuyện dân gian Việt Nam chúng ta, đã nói đến những bà Mẹ khi ngồi săn sóc con đau ốm, đã thốt lên câu : Ước gì Mẹ có thể ốm thay cho con được
Ngày nay, quan niệm về học võ đã thay đổi rất nhiều. Võ thuật không còn là một vũ khí tối hậu đêû giải quyết mọi vấn đề như thuở xa xưa nữa ! Học võ ngày nay để khỏe, để có thể tự vệ khi cần thiết.
Martial Arts for Health and Peace. chúng tôi xin tạm dịch là : Võ Thuật cho Sức Khỏe và An Bì“
Thế thì chỉ có những người trẻ mới di học võ được, còn những người già thì sao ? Xin thưa , võ thuật nếu được hiểu theo nghĩa Khỏe Mạnh và An Bình, thì bất cứ ai cũng có thể học được. 
Người trẻ thì học cách phóng cước, tung quyền, đứng tấn, múa vũ khí, nhào lộn, bay nhảy..v..v...
Người già, phụ nữ, hay những người chỉ muốn luyện công để giữ gìn sức khỏe. Phòng bệnh và chữa bệnh thì tham gia vào các lớp THỂ DỤC DƯỠNG SINH, một bộ môn trong bài Nội Công Tâm Pháp của môn phái VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO. Sẽ giúp chúng ta lấy lại được cân bằng Âm Dương trong cuộc sống.
Con gặp đầu tiên người phố Phũ
Lưng còng , da sạm bụi thời gian
Mắt như sao quắc, thân như cỏ
Tay chỉ trời cao, ngấn lệ tràn
Con nắm tay người đau cố quận
Chiều về sương thấm lạnh giang san
Dưới chân đất vẫn im lòng đất
Nước vẫn muôn Thu đổ thác ngàn.
Võ Sư Nguyễn Tiến Hóa 


TINH THẦN VÕ ĐẠO TRONG CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI


Chúng ta thường nghe nói: võ học không biên giới, tinh thần thượng võ không phân biệt quốc tịch v.v... 
Như vậy, võ học phải chăng là một bộ môn sinh hoạt đứng ngoài vòng luật pháp quốc gia, và tinh thần thượng võ không mang quốc tịch riêng biệt nào của một quốc gia ?
Thực ra, võ học hay bất cứ một ngành học nào cũng đều có xuất phát điểm từ một quốc gia, nhưng sự phát triển không phải chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia ấy, mà quảng phát ra cộng đồng nhân loại. Do đó, võ học không những tôn trọng luật pháp quốc gia, mà còn tôn trọng cả công pháp quốc tế nữa. 
Chúng ta lấy ví dụ từ Nhu Đạo (Judo) và môn phái Thiếu Lâm. Năm 1627, nhà sư Trung Hoa Trần Nguyên Tán (Chen -Yuan Pin) sang Nhật tị nạn chánh trị, rồi cùng với y sĩ Shirobei Akiyama cộng tác biên chế ra môn nhu thuật (Jiu -Jitsu) từ những tinh hoa của võ Thiếu Lâm và võ cổ truyền Nhật Bản (Atéwaza). Tất nhiên, khi cộng tác như vậy, vị danh tăng Trần Nguyên Tán và danh y Shirobei Akiyama hoàn toàn không nghĩ đến quốc tịch của họ, không hề chú trọng tới quan điểm chánh trị cá nhân. Nhưng ngược lại, vị danh tăng Trần Nguyên Tán lại chính là người chống đối Thanh Triều, với chiêu bài Phản Thanh Phục Minh nên phải bôn đào tị nạn chánh trị. Như vậy, liệu chúng ta có thể kết luận được rằng không có vấn đề biên giới và quốc tịch trong công cuộc cộng tác võ học của họ được không. 
Một ví dụ thứ hai : Nam Hàn (Đại Hàn) và Bắc Hàn ( Triều Tiên ) tuy cùng chung một dân tộc, nhưng là 2 chế độ dị biệt và thù nghịch. Nhưng cả hai, cùng lấy Túc Quyền Đạo (Tae Kwon Do) làm quốc võ. Như vậy, cái gì làm họ vượt qua những thành kiến chánh trị, để cùng thái dụng một ngành võ học như nhau ? 
Nếu bảo đó là tinh thần dân tộc - tuy cũng đúng một phần - là tinh thần dân tộc nào, khi có nhiều quan niệm khác nhau về tinh thần dân tộc? Hoặc, nếu phổ quát thêm một chút, chúng ta có thể thấy có cả tinh thần dân tộc thuần túy lẫn tinh thần võ đạo của dân tộc họ. 
Sau đệ nhị Thế Chiến, các ngành sinh hoạt xã hội Nhật Bản đều bị tê liệt sau khi đầu hàng Đồng Minh, nhưng võ học Nhật Bản lại thoát ra và phát triển mạnh hơn bao giờ hết : chỉ trong vài năm, Nhu Đạo đã có 50 triệu môn sinh ngoại tịch. Như vậy, võ học Nhật Bản có phản bội gì dân tộc không, hay ngược lại ? 
Đó chính là giá trị đặc biệt của võ học trong cộng đồng nhân loại, mà tinh thần võ đạo đã đem lại những lợi thế ưu việt cho dân tộc trong cộng đồng nhân loại. 
Sự phát triển võ học trong cộng đồng nhân loại 
Chân giá trị của võ học chính là tính chất nhân bản : do con người, vì con người và phát triển con người. 
Khởi thủy, võ học chỉ là một ý niệm của con người muốn tự tồn trước ngoại cảnh và thiên nhiên : mưa bão, ác thú, quyền sống, sự thù nghịch. 
Ý niệm tự tồn được kinh nghiệm, sáng kiến và kỹ thuật phối hợp, đã biến thành một quan niệm tranh đấu : con người biết nhảy múa theo lửa, cũng biết tự vệ và tấn công bằng cách nhảy múa theo lửa, con người yếu đuối biết tự khắc phục bằng cách rèn luyện thân thể cho cường tráng, con người tay không biết xử dụng võ khí hỗ trợ cho mình từ đồ đá mài, đồ đồng sang tới đồ sắt. Rồi óc tổ chức và khả năng học tập đã giúp con người tổ chức thành bộ lạc, bộ tộc rồi dân tộc, và truyền thụ hay học hỏi những gì thiết thân. Tất cả những biến diễn ấy theo tiến trình nhân loại cứ thế gia tăng và hình thành võ học cũng như võ đạo, thành một cơ cấu tổ chức rõ rệt trong đời sống cộng đồng. Do đó, võ học được khởi đầu từ ý chí tranh đấu rời rạc của từng cá nhân, đã theo sự tiến hóa nhân loại mà tổ hợp thành môn phái, lấy xuất phát điểm từ dân tộc mà quảng phát ra cộng đồng nhân loại. 
Diễn đồ phát triển của võ học trong cộng đồng nhân loại có thể biểu dương như dưới đây :
Qua diễn đồ trên, chúng ta thấy : 
1- Dân tộc được đặt trong môi trường Quốc Gia, Quốc Gia được đặt trong môi trường Nhân Loại.
2- Chánh trị phát xuất từ trung tâm môi trường Dân tộc, quảng phát và xoáy tròn vào môi trường Quốc Gia, rồi dừng lại trong giới hạn (vỏ cứng) của môi trường Quốc Gia.
3- Võ học phát xuất từ hạ tầng cơ cấu của dân tộc, quảng phát từ Dân Tộc sang Quốc Gia, rồi tỏa rộng ra Nhân Loại. 
Điểm đặc biệt ở đây là Chánh Trị bị giới hạn trong khuôn khổ Quốc Gia, trong lúc Võ Đạo có thể quảng phát cả ra môi trường Nhân Loại. Sự giới hạn được quy định bởi các cơ cấu tổ chức quốc gia đều có nhiều dị biệt, và bắt buộc các quốc gia phải tôn trọng lãnh thổ và chủ quyền của nhau theo công pháp quốc tế, trong lúc võ học đi từ Dân Tộc - Quốc Gia tới Nhân Loại mà vẫn không bị giới hạn trong một khuôn khổ nào. 
Chúng ta có thể lấy ví dụ điển hình ở Nhật Bản trong và sau Đệ Nhị Thế Chiến : Nhật Bản muốn tìm đủ mọi cách - kể cả chiến tranh - để phát triển ảnh hưởng chánh trị, kinh tế tại Âu Châu mà không được. Trong lúc võ học Nhật Bản ngược lại, đã phát triển mạnh sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, chỉ trong vài năm đã thâu nạp được 50 triệu môn sinh nhu đạo trên khắp thế giới. 
Tinh thần võ đạo trong cộng đồng nhân loại 
Chúng ta đã thấy võ học đi từ cá nhân, xuất phát từ ý niệm sinh tồn của cá nhân, trước khi đi vào những môi trường hoạt động xã hội. 
Tinh thần võ đạo chính là tinh chất của võ học, nên cũng xuất phát từ cá nhân trước khi quảng phát vào các môi trường hoạt động xã hội. 
Do đó, tinh thần võ đạo không lấy dân tộc hay quốc gia làm đơn vị hoạt động như chánh trị, kinh tế, mà sẵn sàng hoạt động trong bất cứ môi trường sinh hoạt nào, từ dân tộc - quốc gia tới nhân loại. Một ví dụ: chúng ta thấy chánh trị, kinh tế có thể liên kết các quốc gia lại thành khối, như khối Bắc Đại Tây Dương (Nato), khối Đông Nam Á (Seato), khối Varsovie, khối Thị Trường Chung (Marché Commun), nhưng không bao giờ chúng ta thấy có sự liên kết võ học hay võ đạo giữa nước này với nước khác, vì võ học cũng như võ đạo đều không chú trọng tới việc lấy dân tộc hay quốc gia làm đơn vị tranh đấu hay liên kết. 
Trong Cộng Đồng Nhân Loại, tinh thần võ đạo sẽ đem lại những lợi ích thiết thực dưới đây: 
1/ Giúp con người có ý thức và khả năng tự tồn hữu hiệu trong guồng máy sinh hoạt xã hội.
2/ Giúp những phần tử dị chủng và dị tộc hiểu biết nhau nhiều hơn, trong sinh hoạt chung.
3/ Tạo động cơ tinh thần trong mọi dịch vụ hoạt động và điều hành xã hội, với những đức tính tự tin, can đảm, tinh thần thượng võ và kỷ luật.
4/ Tạo điều kiện hợp tác quốc tế trong sự hiểu biết và tương nhượng giữa các quốc gia. 
Nhận xét sâu rộng hơn về võ đạo 
Qua phần phân tích trên, hẳn chúng ta thấy : Võ đạo tuy là võ, nhưng còn là đạo, và tuy là đạo, vẫn không bỏ thực chất võ. Đó thật là một vấn đề vừa giản dị vừa phức tạp, vừa khó hiểu vừa dễ hiểu. Vì võ đạo tuy là võ, nhưng không còn là thứ võ của sự bị kỳ thị là võ biền và võ phu, vì đã hội đủ một số phẩm tính của tôn giáo và giáo dục để phát triển không những phần xác mà còn cả phần hồn của con người. Và mặt khác, dù mang những phẩm tính của tôn giáo và giáo dục như những tinh thần xã kỷ, sát thân thành nhân, trọng nghĩa khinh tài vẫn thoát ra khỏi phạm vi hoạt động hữu hạn của tôn giáo và giáo dục tôn giáo. Ví dụ: Yoga, gốc từ Bà La Môn Giáo (Brahmatisme), trở thành môn tu dưỡng của Phật Giáo và Aán Độ Giáo, sang Trung Quốc hội nhập vào phương pháp thiền tu của Thiếu Lâm, rồi hội nhập vào võ cổ truyền của Nhật với những thành phần môn sinh Phật giáo và Thần đạo để hình thành Nhu đạo, nhưng khi du nhập xã hội Tây Phương lại mang theo cả những phẩm tính của Công giáo và Tin Lành v.v... Đó chính là trạng thái chuyển hoá (transformation) và thăng hóa (sublimation) thành siêu tôn giáo. 
Một đặc điểm khác là, võ đạo tuy xuất phát từ dân tộc, nhưng lại mang thực chất nhân bản và có chiều hướng phát triển dàn tỏa ra khỏi dân tộc, vào Nhân Loại. Không ai cấm một người Mỹ học Nhu đạo đối phó với người Nhật, cũng như không ai cấm một người Nhật học võ Thiếu Lâm chống lại người Tàu, hoặc một người Kampuchia học võ Vovinam Việt-Võ-Đạo để tranh hùng với người Việt. Ở đây, võ đạo dường như lệ thuộc vào chánh trị, nhưng cũng dường như thoát ra khỏi sự lệ thuộc chánh trị, vì những võ đạo sinh đã chiến đấu theo nghĩa vụ Công dân của mình chớ không phải với nghĩa vụ võ đạo sinh, nhưng dù muốn hay không, ảnh hưởng của võ đạo vẫn tác động vào thành bại trận đánh của các phe lâm chiến. 
Không có sự kỳ thị và độc quyền phát triển
trong gia đình võ đạo 
Vấn đề cuối cùng mà chúng ta đề cập tới là, liệu có sự kỳ thị và tranh giành ảnh hưởng để độc quyền phát triển giữa các môn phái võ đạo trong cộng đồng nhân loại không? 
Chúng ta có thể khẳng định là không, mặc dầu chấp nhận một thực trạng không mấy tốt đẹp của thời đại chúng ta : sự kỳ thị đôi khi đã trở thành chủ điểm của một số quan niệm sống trong thời đại chúng ta, trên rất nhiều lãnh vực : quốc gia, chính trị, tôn giáo, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân chủng v.v... Nhưng bên cạnh niềm lo âu lớn, chúng ta còn có sự tin tưởng lớn hơn :khi chúng ta đã nhắc đến sự kỳ thị, là đương nhiên chúng ta coi sự kỳ thị đó là xấu, và có sự chống lại sự kỳ thị đó để đem lại quân bình, công bằng và ổn định cho xã hội. Với võ đạo, sự chống lại sự kỳ thị đó chính là tinh thần thượng võ. 
Muốn thấu đáo hơn, chúng ta có thể đặt câu hỏi ngược lại : nếu có vậy, thì tại sao có tình trạng nhà cầm quyền thực dân Nhật bắt người Đại Hàn phải học võ Nhật, cấm không được học võ Đại Hàn? Hoặc như tình trạng những pha tương tàn trong võ sử Trung Quốc? Hay như tình trạng Nhu Đạo, Taekwondo, Vovinam được thi triển tại Bình Định giữa các phe tham chiến? Thực ra, đó không phải là sự tranh hùng giữa các môn phái võ đạo, mà đó chỉ là sự tranh hùng giữa các chủ trương và sách lược chánh trị giữa kẻ đi xâm lăng và người bị xâm lăng, vì trên thực tế, hai môn phái võ đạo TaeKwondo của Đại Hàn và Karatedo của Nhật Bản vẫn thái dụng tinh hoa của nhau tới mức gần như đồng hóa với nhau. Về những tình trạng tương tàn trong võ sử Trung quốc, thực ra đó chỉ là sự tranh chấp quyền hành giữa các phe nhóm đối nghịch đã được tiểu thuyết hóa và bi thảm hóa, vì trên thực tế chưa bao giờ có sự thù nghịch giữa các môn phái võ đạo nước này, ngoại trừ quan niệm thượng võ hành hiệp giang hồ, trừ gian diệt bạo, cứu khốn phò nguy truyền thống của người Trung quốc. Đó chính là tinh thần võ đạo của quan niệm hành võ hào hiệp nhằm chống lại sự tà ngụy, sự gian ác phi võ đạo, chớ không thể quan niệm như những ví dụ điển hình của sự tương tàn. Cuối cùng, sự áp dụng võ học vào chiến tranh hoàn toàn thuộc về lãnh vực chánh trị, với các đường hướng lãnh đạo của nó, hoàn toàn vượt ra khỏi quan niệm hành võ của các môn phái võ đạo, vì chúng ta không thể võ đoán rằng, hai người lính thù nghịch cùng sử dụng chung một môn võ là môn phái võ đạo đó đã bị chia rẽ và phân hóa, hoặc khi nói rằng một điệp viên Mỹ giỏi Nhu đạo và Túc Quyền đạo là 2 môn phái võ đạo này phục vụ cho nghề tình báo phản gián ngoại quốc. 
Triển vọng 
Cùng với võ học, tinh thần võ đạo đã phát triển mạnh trong Cộng đồng Nhân loại. Tại bất cứ quốc gia nào, chúng ta cũng được nghe nói đến các ngành võ đạo và võ thuật, như Nhu Đạo, Không Thủ Đạo (Karatedo), Hiệp Khí Đạo, Túc Quyền Đạo (Võ Đại Hàn Taekwondo), Quyền Anh v.v... 
Các trường dạy võ mở khắp nơi, từ những cơ quan công quyền tới tổ chức dân sự. Tùy trường hợp, võ đạo được sử dụng như một lợi khí tranh đấu bảo vệ pháp luật, hay sống ngoài vòng pháp luật. Trước khi buôn bán với nước Nhật, chúng ta hiểu biết về người Nhật qua tinh thần võ sĩ đạo của họ, với những ấn tượng đầu tiên rất tốt đẹp về Nhu Thuật và Nhu Đạo, trước khi tiếp xúc với người Anh, chúng ta đã thích thú với môn Quyền Anh do người Pháp du nhập vào Việt Nam. Trước khi tiếp xúc với người Đại Hàn, chúng ta đã nghe nói nhiều về họ qua những từ ngữ Thái Cực Đạo, Túc Quyền Đạo v.v... và không nói đâu xa : chính nhờ phim võ hiệp của Trung Quốc nhập cảng, lịch sử và xã hội Trung Quốc mới được cả giới bình dân biết đến và n “Quyền
Như vậy tinh thần võ đạo tự nó đã có một hấp lực đặc biệt làm chúng ta mến mộ. Nhưng song song với sự mến mộ, chúng ta cũng thấy sự quảng bá võ học và tinh thần võ đạo Việt Nam trong Cộng Đồng Nhân Loại còn quá kém, trong hiện tại, cũng như Nhu Đạo chỉ phát triển mạnh ra ngoại quốc sau Đệ Nhị Thế Chiến, Túc Quyền Đạo chỉ phát triển mạnh ra ngoại quốc sau cuộc chiến tranh Nam - Bắc Hàn, triển vọng của vấn đề quảng phát tinh thần võ đạo Việt Nam ra ngoại quốc chắc chắn sẽ thực hiện sau chiến tranh. 
Triển vọng quảng phát Việt Võ Đạo trong Cộng Đồng Nhân Loại chính là kỳ vọng của tất cả chúng ta, khi sửa soạn bước vào thời hậu chiến. 
  
Võ Việt luyện thành, trăm họ nức lòng thề phục Việt 
Đạo Nam tu tập, ngàn đời nối sử nguyện hưng Nam 

VS Chưởng môn LÊ- SÁNG

ĐẶC TRƯNG KỸ THUẬT CỦA VOVINAM - VIỆT VÕ ĐẠO


Dựa trên nền tảng võ và vật dân tộc, đồng thời nghiên cứu tinh hoa của các  môn võ khác trên thế giới  để dung nạp, thái dụng và hóa giải, nhất là cải tiến nền tảng kỹ thuật của mình theo nguyên lý Cương - Nhu phối triển, hệ thống kỹ thuật (đòn thế, bài bản…) của  môn phái Vovinam khá phong phú, đa dạng và mang một số nét đặc trưng.

1. TÍNH THỰC DỤNG.

 Đây là đặc trưng nổi bật nhất của Vovinam. Thay vì phải mất một thời gian luyện tấn, đi quyền rồi mới học phân thế; võ sinh Vovinam được Huấn luyện viên hướng dẫn ngay các thế khóa gỡ (khi bị nắm tóc, nắm áo, nắm tay, bóp cổ, ôm ngang…), phản đòn căn bản (khi bị đấm, đá, đạp…) song song với những kỹ thuật gạt, đấm, đá, chém, té ngã… ngay từ các buổi tập đầu tiên. Đây là tư duy khá mới mẽ của cố võ sư Nguyễn Lộc vào những năm cuối thập kỷ 30, nhằm giúp võ sinh có thể tự vệ hữu hiệu được ngay. Tính thực dụng đó không những phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ mà càng hợp lý và có giá trị đối với thời đại ngày nay, vì võ sinh không chỉ tập trung thời gian cho việc luyện võ mà còn có nhiều nhu cầu và nhiệm vụ thiết yếu như: học hỏi thêm một số lãnh vực khác (văn hóa, nghiệp vụ…)  cũng như  giải trí, làm việc để mưu sinh…

2. TÍNH LIÊN HOÀN.

Đặc trưng tiếp theo là tính liên hoàn. Một đòn thế Vovinam tung ra luôn luôn phải có tối thiểu 3 động tác. Thí dụ: muốn phản đòn đấm thẳng tay phải của đối phương, võ sinh sẽ bước chân trái sang bên trái cùng lúc dùng tay phải gạt tay đấm đối phương để tránh né; sau đó phản công bằng cách dùng tay trái chém vào mắt hay mặt và kết thúc bằng cú đấm thấp tay phải vào bụng đối phương; hoặc thế chiến lược (liên hoàn tấn công) số 1 bao gồm cú chém úp bàn tay vào mắt hoặc mặt, bồi thêm cú đấm thấp tay phải vào bụng và tiến chân phải lên  dùng chỏ phải đánh vào thái dương của đối phương. Nói chung , có thể đó là những động tác liên hoàn bằng tay (chém, xỉa, đấm, bật, chỏ…), hay bằng chân (đá, đạp, quét, cài, móc…), hoặc đòn tay đi kèm với đòn chân (chém quét, triệt ngã…). Lối ra đòn này nhằm chiếm thế thượng phong khi tự vệ và chiến đấu, phù hợp với thể tạng gọn gàng và nhanh lẹ của người Việt Nam, đồng thời cũng là biện pháp đề phòng trường hợp 1 hoặc 2  đòn ban đầu đánh chưa trúng đích.

3. NGUYÊN LÝ CƯƠNG NHU PHỐI TRIỂN.

Hệ thống kỹ thuật Vovinam còn tuân thủ nguyên lý Cương - Nhu phối triển. Lúc bị tấn công, võ sinh thường né tránh (nhu), rồi mới phản công (cương). Bên cạnh đó, Vovinam cũng có nhiều kỹ thuật tấn công nhưng vẫn đảm bảo nguyên lý này; chẳng hạn như khi tung một cú đá tấn công hoặc phản công (cương) vào thân thể đối phương, võ sinh phải dùng tay che mặt và bảo vệ hạ bộ để thủ (nhu). Ngay trong phương pháp luyện tập té ngã ( không nguy hiểm, không đau), võ sinh phải lên gân và co tròn thân người lại (cương), sau đó lăn tròn thân người lúc ngã xuống (nhu) để hóa giải lực tấn công của đối phương và sức rơi của trọng lượng cơ thể. Nhờ vậy, võ sinh Vovinam tập luyện đòn thế và té ngã trên sàn gạch bình thường như trên thảm.
Nói khác đi, hệ thống kỹ thuật Vovinam bao gồm những thế nhu nhuyễn, các đòn cương mãnh và ngay trong bản thân từng đòn thế cũng chứa đựng sự kết hợp giữa cương - nhu, giống như sự giao hòa giữa âm - dương trong thiên nhiên và xã hội. Cương Nhu phối triển không đơn thuần là sự bao hàm cả 2 tính cương và nhu mà nó linh động, biến hóa. Có lúc cương nhiều, nhu ít; có khi cương ít nhu nhiều; có lúc nửa cương nửa nhu, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể. Nguyên lý này còn thể hiện trong đời sống tinh thần và cách hành xử của võ sinh Vovinam vì:”Cương tượng trưng sự hào hùng, ý chí sắt thép, lòng cương quyết và đức Dũng của con nhà võ. Nhu biểu tượng tính nhu hòa, điềm đạm và lòng Nhân của người võ sĩ. Có cương mà thiếu nhu sẽ không biến hóa, linh hoạt theo từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, có nhu nhưng thiếu cương sẽ không phát huy được hiệu quả tối đa”.

4. VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ KHOA HỌC.

Cũng như các võ phái khác, kỹ thuật Vovinam vận dụng các nguyên lý khoa học vào võ thuật như: lực ly tâm (các thế xoay người, gạt, đỡ, đấm đá, đánh chỏ…theo hình vòng cung hoặc vòng tròn); lực đòn bẫy (các thế bẻ, khóa, gày, móc, chặn…), lực xoáy (các thế đấm thẳng…), lực co gấp và sức bật (các đòn quăng, quật, vật, nhảy…), v.v… hầu giúp võ sinh ít hao tốn sức lực khi thi triển đòn thế mà vẫn đạt hiệu quả cao. Đặc biệt, các đòn chém quét, chém triệt, chỏ triệt (lực tay và chân đánh cùng lúc nhưng nghịch chiều), triệt ngã (lực tay và lực chân đánh cùng lúc và cùng chiều) cùng các thế quặp cổ (bất ngờ tung ra khi đối phương bất cẩn, lảo đảo…) trong hệ thống đòn chân cơ bản được sử dụng để đánh ngã đối phương cũng là một đặc trưng kỹ thuật quan trọng của Vovinam.

5. NGUYÊN TẮC “MỘT PHÁT TRIỂN THÀNH BA".

”Một điểm đáng chú ý khác  là các bài đơn luyện (quyền tay không, quyền có binh khí), song luyện (2 võ sinh thực hiện liên tục một số đòn thế tay không hoặc có vũ khí theo quy ước), đa luyện (3-4 võ sinh thực hiện liên tục một số đòn thế tay không hoặc có vũ khí theo quy ước) chính là sự kết nối hợp lý các khóa gỡ, các thế phản đòn căn bản…để tạo điều kiện thuận lợi cho võ sinh ôn luyện. Đây chính là nguyên tắc” một phát triển thành ba” trong hệ thống kỹ thuật của bộ môn ...
Hơn một thập kỷ qua, Vovinam lại có thêm một số bài Nhu khí công quyền dành cho tất cả võ sinh và các bài Liên hoàn đối luyện dành cho người có tuổi bao gồm những động tác nhẹ nhàng và không té ngã.
Không ngừng được bổ sung trong 40 năm qua, hệ thống đòn thế, bài bản tay không và cả vũ khí (dao, kiếm, côn, búa, mã tấu, tay thước, đao, đại đao…) của Vovinam  đảm bảo những đặc trưng cơ bản ban đầu cũng như vừa mang tính truyền thống Việt Nam và vừa mang tính hiện đại.
                                                                                                                     Nguyễn Hồng Tâm