Social Icons

Pages

Hiển thị các bài đăng có nhãn du lich ha nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn du lich ha nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 7 tháng 12, 2015

NỮ TƯỚNG LÊ CHÂN - CUỘC ĐỜI, HÀNH TRẠNG VÀ NƠI THỜ PHỤNG


Nữ tướng Lê Chân (Hồng Sơn - Thanh Sơn - Kim Bảng - Hà Nam)
Nữ tướng Lê Chân - cuộc đời, hành trạng và nơi thờ phụng
Trong lịch sử đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, phụ nữ Việt Nam luôn song hành cùng nam giới, làm nên những chiến công bất hủ. Năm 40, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ, phụ nữ đóng vai trò then chốt cả về chỉ huy và chiến đấu. Bà Lê Chân là vị nữ tướng xuất sắc, công lao, chiến tích của bà lưu dấu ấn sâu đậm ở nhiều địa phương.
Từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội...

Theo thần tích, truyền thuyết và các tư liệu khác về bà Lê Chân vào những năm đầu công nguyên nước ta bị nhà Đông Hán (Trung Quốc) thống trị. Ở làng An Biên (tên nôm làng Vẻn) huyện Đông Triều, xứ Đông (nay thuộc xã Thủy An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) có ông Lê Đạo làm nghề thầy thuốc, tính nhân từ, hay giúp đỡ người nghèo khó. Vợ ông là Trần Thị Châu cũng là người thuần hậu. Hiềm nỗi, ông bà tuổi đã cao mà chưa có con. Nghe tiếng ngôi chùa ở núi Yên Tử trong huyện rất linh ứng, ông bà tìm đến cầu tự. Quả nhiên, bà Châu có mang, ngày mồng 8 tháng 2 năm Canh Thìn (20) bà sinh con gái khôi ngô, bụ bẫm. Ông, bà đặt tên con là Chân. Năm Lê Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh của nàng nổi tiếng khắp vùng.
Thái thú Tô Định, một kẻ tham tàn, bạo ngược "thấy tiền thì giương mắt lên" đi kinh lý qua Đông Triều. Nghe kẻ nịnh thần tâu bày về sắc đẹp của nàng Lê Chân, Tô Định bèn dùng quyền thế ép nàng làm tì thiếp. Lê Chân dứt khoát chối từ. Tức tối, Tô Định hãm hại cả bố, mẹ nàng. Căm giận quân cướp nước, Lê Chân nung nấu căm thù, quyết trả thù nhà, nợ nước. Nàng tìm thày học binh thư, võ nghệ, kết giao với những người cùng chí hướng. Khi võ nghệ đã tinh thông, nàng cùng bạn bè tâm phúc sang đất An Dương (Hải Phòng), lúc ấy là một vùng đất bãi phù sa mới bồi. Nàng chiêu dân tứ xứ khai khẩn đất hoang, lập nên xóm ấp, chiêu tập binh mã, sắm sanh vũ khí, tích trữ lương thảo sẵn sàng khởi nghĩa.
Nghe tin ở xứ Đoài, Hai Bà Trưng cũng đang mưu nghiệp lớn, Lê Chân chẳng ngại đường sá cách trở tìm đến đất Mê Linh. Bà Trưng Trắc phong Lê Chân làm tướng được cùng bàn luận kế sách khởi nghĩa rồi phái nàng trở lại quê nhà, chiêu tập thêm binh sĩ, chuẩn bị sẵn lương thảo, chờ thời cơ hành động.
Tháng 3 năm Canh Tý (40) Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống bè lũ thống trị Đông Hán. Hưởng ứng lời hịch của Hai Bà, thủ lĩnh và nhân dân khắp 4 quận Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung Trung bộ), Hợp Phố (Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc) đã nhất tề nổi dậy, hợp sức với đạo quân chủ lực của Hai Bà, tấn công địch ở khắp nơi. Đạo quân của Lê Chân từ mạn biển xứ Đông đánh thốc lên Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) lỵ sở quận Giao Chỉ, nơi có bộ máy thống trị của bè lũ Tô Định, phối hợp với quân của Hai Bà Trưng và các thủ lĩnh nghĩa quân khác, giải phóng quận thành. Tô Định vội vã tháo chạy về đất Nam Hải (Trung Quốc) xin quân cứu viện.
Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Đông Hán. Đất nước sạch bóng quân thù, bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua (Trưng Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Lê Chân khi ấy 24 tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa,
Nữ tướng Lê Chân đem quân trở về vùng đất An Dương khi trước, mở thêm trại, ấp lập ra trang An Biên (lấy tên quê gốc). Bà dùng nhân công khai khẩn đất hoang dọc ven sông Tam Bạc thành đồng ruộng cấy lúa, trồng dâu xanh tốt. Chỉ trong thời gian ngắn, trang An Biên dân cư đã đông đúc, kinh tế phát triển, nhiều nhà dân giàu có. Bà Lê Chân thường xuyên cho luyện tập trận thế, mở những lớp  đấu vật, đài thi võ để nâng cao sức khỏe, khả năng chiến đấu của binh sĩ, dân chúng.
Trong thời gian bà Trưng Trắc làm vua, nhà Đông Hán phải lo đối phó với biến loạn lớn trong nước, nên không thể phát quân xâm lược nước Âu Lạc. Song triều đình Hán đã sửa soạn kỹ cho cuộc đàn áp. Mùa hạ, tháng 4 năm Kiến Vũ thứ 18 (42), vua Quang Vũ phong lão tướng 58 tuổi Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân thống suất quân sĩ sang xâm lược nước ta. Mã Viện xảo quyệt, mưu mô, có tài chinh chiến, dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Lực lượng quân sự Đông Hán huy động ở mấy quân phía Nam Trung Quốc binh lính thiện chiến quen với thung thổ, khí hậu nhiệt đới, gồm 2 vạn quân chủ lực, 2000 thuyền, xe lớn, ngoài ra còn quân chèo thuyền, dân phu tải lương, phục dịch.
Mã Viện chỉ huy cả hai đạo quân, chia hai đường thủy bộ, vừa dùng thuyền vượt biển, vừa đi đường ven chân núi phát cây mở đường hơn nghìn dặm; hai cánh quân thủy, bộ không cách xa nhau lắm để còn liên hệ phối hợp với nhau. Từ vùng ven biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, hai đạo quân thủy, bộ Đông Hán tiến đến cửa sông Bạch Đằng (Quảng Ninh - Hải Phòng) để vào nội địa nước ta.
Đội quân thường trực phòng thủ ven biển Đông Bắc do Chưởng quản binh quyền Lê Chân chỉ huy đã ra quân kịp thời chặn đánh quyết liệt đoàn thuyền binh đông đảo của giặc ngay từ cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh của Trưng Vương trên bộ nữ tướng Thánh Thiện đem quân lên đánh giặc ở biên giới; nữ tướng Bát Nàn chặn cánh quân trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối hợp với nữ tướng Lê Chân.
Suốt dọc sông Bạch Đằng, Đá Bạc, dưới nước và trên bờ hai đạo quân, đa số là phụ nữ chiến đấu quyết liệt. Lê Chân cho dựng chướng ngại vật trên sông, dùng những chiếc thuyền chiến nhỏ, nhẹ, dễ cơ động tập kích vào mạn sườn đoàn thuyền to lớn, nặng nề của giặc, làm chúng tổn thất không ít. Song do quá chênh lệch về lực lượng, trang bị, vũ khí so với địch, nên hai nữ tướng phải lui quân.
Đội thuyền binh của Lê Chân nhỏ nhẹ, ngược sông Bạch Đằng tiến rất nhanh, còn binh thuyền của Mã Viện to lớn, nặng nề nên đuổi theo rất chậm. Chẳng mấy chốc quân ta đã bỏ xa quân địch. Theo đường sông Bạch Đằng - Kinh Thầy - sông Đuống, thủy quân của Lê Chân tập kết về vùng hồ Tây, Hoàng Mai bên bờ hữu sông Hồng. Trong thời gian ngắn trú quân ở đây, nữ tướng Lê Chân gấp rút củng cố lực lượng, tuyển thêm binh sĩ, đóng thêm thuyền chiến. Bà cho binh sĩ luyện tập võ nghệ, mở lò đấu vật. Mọi việc đã xong, nữ tướng Lê Chân gấp rút hành quân về bảo vệ kinh đô Mê Linh.
Chờ đợi không thấy quân Mã Viện tấn công, Hai Bà Trưng đã chủ động tiến quân từ Mê Linh, qua Cổ Loa (Tây Vu), xuống Lãng Bạc đánh quân xâm lược đang đóng tại đây. Quân ta chiến đấu ngoan cường, đội quân tiên phong do nữ tướng Lê Chân chỉ huy tả xung, hữu đột. Bị cầm chân nhiều ngày, quân tướng địch đã có phần nao núng. Nhưng kẻ địch còn rất mạnh, quân đông, thủy bộ phối hợp lại thạo đánh tập trung do tên lão tướng Mã Viện quỉ quyệt chỉ huy, nên dần xoay chuyển tình thế. Quân Hai Bà Trưng trang bị thiếu, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, chưa quen đánh kiểu trận địa nên bị thiệt hại nặng, Hai Bà Trưng, nữ tướng Lê Chân và một số tướng lĩnh phải chuyển sang hữu ngạn sông Hồng, rồi lùi về căn cứ Cấm Khê (Kim Khê) - thung lũng suối Vàng ở chân dãy núi Ba Vì (Hà Nội). Đây là vùng núi rừng hiểm trở, ba mặt có sông lớn (sông Đà, sông Hồng, sông Đáy) ở thế thiên hiểm, tốt cho việc phòng ngự.
Quân thù kéo tới vây hãm, mở nhiều đợt tấn công. Quân ta kháng cự quyết liệt nhưng dần vào thế bất lợi. Mở đường máu Hai Bà Trưng và các nữ tướng Lê Chân, nàng Tía, lão tướng Đô Dương đem lực lượng còn lại rút theo hai đường thủy, bộ. Đường thủy theo sông Tích ra sông Đáy. Để bảo toàn khí tiết, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận. Nữ tướng Lê Chân tiếp tục cùng thủy binh xuôi về nam đồng bằng sông Hồng. Đạo quân của Đô Dương, nàng Tía rút theo đường thượng đạo đi len lỏi dưới chân dãy núi đá vôi 99 ngọn từ Ba Vì, Hòa Bình vào đất hai huyện Kim Bảng, Thanh Liêm (gọi là dãy Nam Công) rồi qua Ninh Bình vào Cửu Chân (Thanh Hóa).
Đến căn cứ Lạt Sơn
Chụp tổng thể khuôn viên đền chính
Sông Đáy - chi lưu bên hữu ngạn sông Hồng, bắt nguồn ở xã Vân Nam (Phúc Thọ, Hà Nội) chảy qua vùng đồng bằng vào đất Hà Nam thì gặp núi ở thôn Vĩnh Sơn (xã Tân Sơn - Kim Bảng) ở cả hai bờ. Sông tiếp tục uốn khúc qua hai xã Khả Phong, Thi Sơn với những khối núi, quả núi độc lập nằm bên hữu ngạn, đến địa phận xã Liên Sơn, Thanh Sơn núi kết thành dải, trùng điệp, cây mọc thành rừng. Từ địa phận thôn Đồng Sơn hiện nay (xã Liên Sơn) cũng bên hữu ngạn sông Đáy, sông Ngân nhận nước sông mẹ, chảy ngoằn ngoèo ven dãy núi qua các thôn Bút Sơn, Lạt Sơn (Thanh Sơn, Kim Bảng), Tân Lâm, Nam Sơn (thị trấn Kiện Khê) rồi đổ nước vào sông Đáy ở địa phận thôn Đò (xã Thanh Thủy) huyện Thanh Liêm.
Cổng đền thờ

Nữ tướng Lê Chân đã chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn để làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán, để một bộ phận nghĩa quân của nàng Tía, lão tướng Đô Dương tiếp tục rút về Cửu Chân (Thanh Hóa) vì tuyến đường thượng đạo từ Ba Vì cũng qua đây. Căn cứ Lạt Sơn lưng tựa vào dãy núi hình cánh cung ở phía Tây chạy từ Bắc xuống Nam; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai hào nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Trận địa phòng thủ được xây dựng ở các thung lũng trước núi, ở các hang động và các đồi đất lẫn đá kéo dài khoảng 7 km từ Bắc xuống Nam. Các tên thung, núi đồi và ký ức dân gian, mặc dù đã trải qua gần 2.000 năm vẫn giúp đời sau hình dung được những nét cơ bản về căn cứ và những trận đánh cuối cùng của bà Lê Chân.
Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây bố trí đội quân tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù... phía sau Mộc Bài là đồi Dốc voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh(1). Tiếp xuống phía Nam, lần lượt là thung Hóc Bạc có kho lương thực, hậu cần; thung Bể, thung Dâu nơi đóng đại quân. Hang Diêm trên sườn núi phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi cao khoảng 225 m đặt vọng gác, quan sát được toàn bộ căn cứ. Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm tập hợp kiểm đếm số lượng binh sĩ. Sau thung Dâu là hai thung Đội Nhất, Đội Nhì nơi trú đóng của hai đội quân. Đồi Ông Tượng, điểm cuối căn cứ cách không xa sông Ngân về phía Tây. Cách vị trí đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km là thung Trống, nhân dân địa phương giải thích là nơi có lầu trống dùng để đánh cầm canh và hiệu lệnh chiến đấu. Một số địa danh trong khu căn cứ như đồi Dớn, non Tiên, thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục mẫu cần xác minh thêm về ý nghĩa.
Cùng với xây dựng căn cứ, nữ tướng Lê Chân gấp rút chiêu mộ thêm binh sĩ chủ yếu là người Lạt Sơn và các vùng lân cận, lập nhiều cơ đội. Đạo quân của Đô Dương đã bổ sung một bộ phận binh sĩ, trong đó có nhiều người họ Dương cho căn cứ Lạt Sơn(2).
Căn cứ còn chưa vững chắc, Mã Viện đã đưa quân đến vây hãm, mở nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự cả trong các thung và trên sông Ngân. Các trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên cường. Biết không đủ lực lượng đánh bại quân thù, hơn nữa lão tướng Đô Dương, nàng Tía đã rút lui an toàn, Bà cho binh sĩ bí mật rút khỏi căn cứ để mưu kháng chiến lâu dài, còn Bà và số ít tướng lĩnh, một bộ phận quân sĩ ở lại tử thủ. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên, thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ. Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở Đồng Loạn, nữ tướng Lê Chân cùng mấy tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn dốc đứng, nữ tướng Lê Chân gieo mình tự vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc, (núi này cách đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km về phía Tây). Thời khắc ấy vào buổi chiều ngày 13 tháng 7 năm Quí Mão (43). Mấy tướng tâm phúc đã mai táng Bà ở một hang động trong căn cứ(3).
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng in đậm dấu son trong sử sách, trong ký ức dân gian qua nhiều thế hệ. Các nữ tướng, nam thần của cuộc khởi nghĩa đều có đền thờ, được nhân dân đời đời khói hương tưởng kính. Nữ tướng, Thánh Chân công chúa, Chưởng quản binh quyền Lê Chân được nhiều địa phương thờ phụng. Đó là: Đền An Biên (xã Thủy An, Đông Triều, Quảng Ninh) quê hương nữ tướng; đền Nghè (An Biên cổ miếu), đình An Biên (phường An Biên), đình Vẻn ngoài (phường Trại Cau) quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là nơi Bà khai hoang, lập nên trang ấp, xây dựng lực lượng và chặn đánh cuộc xâm lược của Mã Viện; đình Hoàng Mai (phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội) nơi bà lập sới vật để rèn luyện quân sĩ. Đặc biệt tại căn cứ Lạt Sơn xưa, từ bao đời nay nhân dân địa phương, khách thập phương xa gần tụ về chiêm bái, đông nhất vào kỳ lễ hội, ngôi đền thờ Bà Lê Chân, tưởng niệm vị nữ tướng anh hùng dành trọn cuộc đời mình vì nghĩa lớn. Cũng nơi đây trên vách đá thung Bể còn lưu lại ba tấm bia niên đại năm 1671, 1672 triều vua Lê Gia Tông thời Hậu Lê, nói đến việc xây chùa Thánh Chân, khởi nguồn là Tiên động Thánh Chân, một bia có khắc hình con hổ, gợi liên tưởng đến sự dũng mãnh như hổ của nữ tướng Lê Chân, điệp thêm sự tôn kính, nâng Bà lên hàng Thánh Mẫu, Phật Mẫu.
Không chỉ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Hà Nam mà cả nước đều tôn vinh, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân, bởi vì bà đã để lại cho hậu thế muôn đời tấm gương chói lọi vì nước, vì dân./.
 Chú thích:
(1) Bia ma nhai trên vách đá ở thung Bể (Lạt Sơn) có khắc hình con voi thêm một căn cứ về sự có mặt của đội tướng binh.
(2) Đô Dương quê làng Dương Xá (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Ông là đô vật nổi tiếng. Đô Dương có nghĩa sau: Đô vừa là đô vật vừa chỉ chức quan võ chỉ huy một đạo quân, Dương là họ, không phải tên. Bia ma nhai ở thung Bể (Lạt Sơn) khắc tên nhiều người họ Dương công đức xây chùa Thánh Chân, gợi liên tưởng về sự tham gia của người họ Dương ở căn cứ Lạt Sơn. Tộc phả họ Dương ở Lạt Sơn cho biết tổ tiên vốn người Cửu Chân (xã Gia Miêu, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa).
(3) Bia Lạt Sơn, niên đại 1671 nói đến Tiên động Thánh Chân, phải chăng bà được mai táng tại đây nên mang tên này.
Mai Khánh


LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG LIỄU ĐÔI

“Nghìn năm vật võ đua tài; Vạn năm sông rộng núi dài tổ tiên”
Hội vật Liễu Đôi được tổ chức ở làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Ở các lễ hội khác, vật võ chỉ là trò vui thể thao thì trong lễ hội Liễu Ðôi này, vật võ lại là nội dung chính của ngày hội.
Liễu Đôi là một mảnh đất giàu truyền thống thượng võ. Ở đây có hội vật nổi tiếng, thu hút các đồ vật gần xa đến tham dự đua tài. Người dân Liễu Đôi lưu truyền rất nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của hội vật và cả những truyền thuyết liên quan đến vật võ và hội vật võ mà di tích còn in dấu đậm đặc trên mảnh đất này.
Lễ hội bắt đầu từ sáng mồng 5 và kết thúc vào mồng 7 Tết



Một số hình ảnh diễn ra trong Hội Vật Liễu Đôi
Truyền thuyết Liễu Đôi kể rằng ở đây có một chàng trai họ Đoàn có sức mạnh phi thường lại giỏi võ, một mình địch nổi năm trai tráng trên sới vật. Một hôm, ở Nương Cửi, tự nhiên có một ánh sáng xanh chói lòa phát ra, dân làng vô cùng hoảng sợ, chỉ có chàng trai họ Đoàn nọ dám đi tới và nhận thấy ánh sáng ấy phát ra từ một thanh gươm đặt trên một tấm khăn đào. Chàng trái bái tạ thần linh, tay cầm gươm, lưng thắt chiếc khăn đào, múa gươm cho dân làng xem. Khi có giặc phương Bắc kéo tới, chàng trai mang gươm ra trận. Trong đoàn quân của chàng có nữ tướng họ Bùi rất dũng cảm, hai người thề ước với nhau. Nhưng không may, chàng trai bị tử trận, thi hài được mang về quê hương. Giặc tan, nữ tướng họ Bùi đến viếng mộ chàng nhưng quá đau thương nên đã chết trên ngựa khi cách mộ chàng chừng vài trăm bước. Dân Liễu Đôi thương nhớ, lập đền Ông thờ chàng, gọi là Thánh Ông, lập đền Bà thờ nữ tướng, gọi là đền Tiên Bà. Hàng năm làng mở hội vật để tưởng niệm, gọi là hội Thánh Tiên (gọi tắt hai chữ Thánh Ông–Tiên Bà), đó là hội Vật võ Liễu Đôi.
Hai đô vật so tài trận mở màn lễ hội vật Liễu Đô  Ảnh: Nguyệt Anh
Hàng năm, vào ngày 05 tháng Giêng âm lịch cho đến hết ngày mồng 10 tháng Giêng lại diễn ra Lễ hội văn hóa truyền thống Liễu Đôi, trong không khí chuẩn bị Tết nguyên đán, dân Liễu Đôi làm mọi công việc cần thiết để phục vụ cho Lễ hội. Trong Lễ hội này sôi động nhất là phần tổ chức vật võ (gọi tắt là Hội Vật võ Liễu Đôi) đây là một tục lệ tiêu biểu cho văn minh, văn hóa Liễu Đôi. Đoạn đường từ đền Ông đến xới vật (tức Nương Cửi) được dọn quang. Trường diễn hay gọi là dóng vật được chọn đặt trên mảnh đất truyền thống, đó là Nương Cửi, nơi chàng trai họ Đoàn được gươm thần thuở trước. Tham dự hội là dân làng Liễu Đôi và các làng có truyền thống vật võ gần xa. Hội vật võ Liễu Đôi cho phép phụ nữ được tham gia, chị em cũng được ra đóng với đao, côn, kiếm, quyền… không thua kém con trai. 


Nghi thức tiến hành Lễ hội Văn hóa truyền thống Liễu Đôi được diễn ra như sau: Đầu tiên là Lễ rước Thánh vào dóng, Dóng tức là nơi tổ chức vật, rước thánh vào dóng tức rước kiệu Thánh Ông từ đền vào dóng vật. Lễ vật dâng thánh là lễ chay, gồm mấy phẩm oản, vài bẹ chuối, một nậm trà (thay cho rượu). Một cụ già tay cầm gương đi giật lùi dẫn đầu cuộc rước, khi kiệu Thánh vào dóng thì làm lễ tế. Sau lễ tế Thánh là Lễ phát hoả. Người ta đốt lên một ngọn lửa lớn để tưởng nhớ lại ngọn lửa xanh thần diệu bốc lên từ thanh gươm phát hỏa mà trời ban cho đất Liễu Đôi ở cánh Nương Cửi. Tiếp đó là Lễ trao gươm và thắt khăn đào tưởng nhớ việc chàng trai họ Đoàn nhận thanh gươm thần và tấm khăn đào. Ông Trùm là một người cao tuổi có uy tín được cử cầm trống cái cho hội trao chiếc gươm trên kiệu thánh và thắt khăn đào cho một đô vật danh dự được cử ra ngồi dưới cây dải trước rạp. Sau đó là Lễ múa cờ tụ nghĩa, điệu múa này còn có tên là "thiên nhân kỳ trận". Điệu múa này có hai hoặc bốn người tham gia, mỗi người một lá cờ đỏ hình vuông, tiến từ hai bên kiệu thánh ra giữa đóng theo hiệu trống mà múa. Theo tiếp là Lễ thanh động. Lễ này bắt đầu bằng tiếng trống cái ở dóng nổi lên liên hồi cùng với tiếng pháo nổ ran, tiếng chuông, cồng, mõ, thanh la tại khu vật võ và tất cả các đền chùa trong vùng đều nhất tề hưởng ứng hoà với tiếng reo hò cổ vũ sôi nổi.


Sau những nghi thức trên thì đến cuộc vật võ. Hội vật võ có nhiều nghi thức bắt buộc. Đầu tiên là nghi thức gọi là “năm keo trai rốt”. Trai rốt là hai cậu con trai của làng ra đời cuối cùng trong năm qua. Mở đầu cuộc vật, làng gọi tên hai trai rốt ra vật năm keo trình làng, lễ thánh. Tất nhiên trai rốt hãy còn bé chưa vật được nên bố phải ra vật thay. Lệ quy định, hai ông bố chỉ vật biểu diễn, không được vật thật để đối phương ngã, bởi vì hai ông bố ra vật với mục đích trình làng, trình Thánh chứng giám để hai đứa trẻ tương lai sẽ trở thành hai đồ vật võ. Vì vậy nếu để bị ngã thì làng sẽ bắt phạt cả hai. Có khi bố đi vắng thì ông ra vật thay, không được bỏ cuộc. Với lệ này, người dân Liễu Đôi muốn nhắn nhủ con cháu là sinh ra làm anh con trai thì trước hết phải là trai vật võ. Tiếp theo là nghi thức “đô xã làm nền”, có nghĩa là đô Liễu Đôi vào dóng trước, giao đấu trước để gây không khí, khuyến khích tinh thần cho đô vật bốn phương. Khi đô vật bốn phương đã hăng say rồi thì đô vật Liễu Đôi rút ra, nhường dóng cho khách, chỉ đứng ngoài cổ vũ động viên là chính. Vào giải, ai thắng được 5 keo liền thì được vào vòng giải. Ai thắng hết các đô trong vòng giải thì được giải cọc. Giải cọc là giải đặc biệt, tiếp đến là giải thứ: nhất, nhì, ba, cuối cùng là giải cuộc trao cho tất cả những người vào đóng vật. Như vậy, cả người thua cũng có giải. Phần thưởng trao giải là tiền hảo tâm của thập phương công đức, ngoài việc chi vào đèn nhang, còn lại bao nhiêu phải chi hết vào giải, nếu còn chút ít thì cho người nghèo ngay tại chỗ, tuyệt không được chi dùng vào việc khác. Vào dóng, đô vật chỉ được đóng khố, không được mặc quần áo. Các đô vật có tục kiêng cởi áo và xỏ áo tay phải trước, vì tay phải là tay cầm giáo, cầm gươm, tay lợi thế trong đấu vật. Cần cởi áo hoặc xỏ áo, họ dùng tay trái trước, vì thế, tay trái còn gọi là tay áo. Trong dóng, những miếng hiểm độc làm hại đối phương bị cấm ngặt. Ai phạm luật bị xử rất nghiêm khắc. Người phạm luật bị phạt đứng giữa đóng cho một đô vật khoẻ hơn bê vứt ra khỏi dóng và năm đời con cháu không được tham gia vật võ. Liên quan đến hội vật võ Liễu Đôi còn có hội thi món ăn đặc sản trước hôm mở hội, món ăn nào được làng trao giải mới được đem bán phục vụ khách thập phương trong những ngày hội.

Giải thưởng cho chức vô địch là 150.000 đồng
Tinh thần thượng võ của người dân Liễu Đôi còn được thể hiện ở “lễ trầm tự”,được tiến hành vào đêm 30 tết tại chùa Ba Chạ. Trầm tự có nghĩa là chém chữ. Tương truyền có một vị tướng đời nhà Trần khi về đây thao binh luyện tướng đến khi ra quân đã trao lại cho 5 làng của xã Liễu Đôi một cuốn binh thư có tên là “Võ trận”. Người dân Liễu Đôi truyền đời phải học thuộc cuốn binh thư đó. Đêm ba mươi tết, các tộc trưởng đeo gươm vào đền thờ Thánh trước mặt là băng giấy ghi chữ đầu trang của tập “Võ trận”. Đúng giao thừa, đèn nến vụt tắt, mỗi tộc trưởng vung gươm chém một nhát lên băng giấy trước mặt. Chém được đoạn giấy nào thì nhận lấy đoạn giấy ấy. Xong lễ, đèn nến sáng trở lại, từng họ xem các chữ đầu của băng giấy biết được họ mình năm đó phải học thuộc đoạn nào trong sách. Nhiều năm như thế, các dòng họ có thể thuộc lòng quyển binh thư. Đến thời Pháp thuộc, việc dùng gươm chém băng giấy đã được thay bằng việc rút thẻ. Ngày nay, cuốn “Võ trận” không còn nên lễ trầm tự cũng không còn nhưng ký ức về tục lệ đó đã chứng tỏ tinh thần thượng võ sâu đậm của người dân Liễu Đôi.
Thanh Sơn

Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015

TÔNG HỢP MÓN NGON ĐẶC SẢN HÀ NAM

Bánh cuốn Phủ Lý 
Nhắc đến đặc sản Hà Nam, không thể bỏ qua bánh cuốn Phủ Lý. Từng lớp bánh được tráng đầy đặn, nhân mộc nhĩ và hành phi giòn ruộm. Bên ngoài bánh lúc nào cũng bóng bẩy bởi lớp mỡ phủ, nhìn đã muốn ăn. 
Chả nướng ăn kèm bánh mới thật công phu, không phải chả nướng hàng loạt trên vỉ mà làm từ thit ba chỉ thái mỏng ướp gia vị đầy đủ xiên que nướng trên than hồng nên mang vị đậm đà, ít ngán. Chả này sau đó được thả vào bát nước chấm pha chế theo bí quyết riêng cùng dưa góp.
Đi kèm theo đĩa bánh cuốn là rau thơm và rau sống như xà lách, kinh giới, rau mùi, giá đỗ, sung xanh, hoa chuối mỡ màng.
Bánh cuốn nóng làm ngay tại chỗ, chấm ngập trong bát mắm nóng nóng cắn ngập chân răng thấy beo béo của bột gạo quê, giòn giòn mộc nhĩ, thơm hành.
Người ăn vừa nhai chậm vừa nhón lấy cọng rau thơm, lá rau sống, thêm miếng chả và đu đủ nữa lại càng trọn vẹn vị bánh cuốn của riêng một vùng đất.
                               
                                                  Chuối ngự Đại Hoàng
Chuối ngự của Hà Nam là loại chuối nhỏ nhưng có mã đẹp. Quả nào cũng căng tròn, khi chín vàng óng.
Người nào ham ăn có thể liền một lúc “chiến” hết nải là bình thường. Loại chuối đặc biệt vậy nên khi xưa được người dân làm vật phẩm tiến vua, cũng chính vậy nên có tên chuối ngự.
Chuối ngự - đặc sản Hà Nam - có hương vị rất ngon, ngọt mà không quá sắc, thơm thanh tao chứ không dậy chua.
Đến sau này, chuối ngự Đại Hoàng cũng không mất đi vị thế đã được khẳng định. Nó có tên trong top 50 loại trái cây đặc sản nổi tiếng Việt Nam do Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Namchính thức công bố lần thứ nhất năm 2012.
                        
                                    Cá kho niêu đất Vũ Đại
Những tưởng món cá kho nơi nào cũng giống nhau nhưng cá kho làng Vũ Đại lại nổi tiếng và có thương hiệu hơn hẳn. Thậm chí, người ta còn xuất khẩu món ăn dân giã này ra tận nước ngoài.
Cá kho làng này được cho vào trong niêu đất, chỉ thêm các gia vị cơ bản, thịt ba chỉ, nước mắm cua và lót riềng kho liên tục 10 - 12 giờ thôi nhưng cho ra món ngon cực hao cơm.
Đặc sản Hà Nam còn nổi tiếng với món cá kho niêu đất Vũ Đại
Cá kho khi thành phẩm có màu nâu sậm, thịt mềm nhưng còn nguyên khúc, xương cũng nhừ và mùi thơm lừng tỏa lan. Cá kho niêu đất ăn đậm đà vị quê, không hề tanh mà ngược lại, ngọt thịt bùi xương rất hòa hợp với nhau.

                                      
                                               Quýt Lý Nhân
Quýt Lý Nhân quả dẹt, vỏ giòn, mỏng, khi chín màu vàng ươm. Quýt vùng này mọng nước bên trong và nhiều tinh dầu bên ngoài. Dùng tay bóc vỏ thấy mùi thanh mát tỏa ra dễ chịu.
Quýt Lý Nhân có múi đều, ít hạt, không ngọt đậm mà ngọt dịu, vị thanh.
Quýt Lý Nhân nổi tiếng khắp nơi không những trong nước mà còn được xuất khẩu ra thị trường thế giới và cũng đã từng dùng làm đặc sản tiến vua khi xưa. Vì thế, qua Hà Nam mùa quýt, nên tranh thủ thưởng thức món ngon đặc biệt trong thiên hạ.
                              
                                              Mắm cáy Bình Lục
Mắm cáy chế biến từ những con cáy nhỏ được lột yếm, bóc trắng, giã nhuyễn, trộn muối rồi đem ủ kín trong vại. Vại mắm phải phơi đủ nắng để không hỏng, khi mắm thật ngấu mới đem dùng.
Mắm cáy Bình Lục thơm ngon. Chỉ ngửi qua mùi hăng hăng là thấy cả vùng trời nắng đồng ruộng sông hồ.
Mắm cáy múc ra, pha thêm ớt, tỏi chấm cùng rau luộc cứ thế ăn hoài không thấy chán!
Cái vị đậm đà, chân chất thấm qua môi lưỡi cùng vẻ khiêm nhường của rau xanh mát cho ra hương vị hài hòa không làm người ăn săn lưỡi vì mặn, cũng không nhạt nhẽo khiến ta nhanh quên.
                               
                                                  Bánh đa Kiện Khê
Bánh đa Kiện nhiều vừng giòn tan và bùi thơm nhất tỉnh. Nhai lâu trong miệng, bánh đa để lại vị ngọt thanh giản của bột gạo tự nhiên.
Khác với bánh đa của nhiều địa phương trên cả nước, người dân còn tạo ra hương vị riêng cho bánh bằng cách kết hợp nó với những món sẵn có như chuối tiêu, cùi dừa.
Vị ngọt mềm của chuối chín trứng cuốc làm dịu cái khô giòn của bánh đa nhưng tăng độ ngọt quả là một sáng tạo đầy bất ngờ. Trong khi đó, cùi dừa làm bánh đa đã bùi vừng nay còn béo và thơm lừng hơn nữa cũng là giải pháp đầy hương vị.
                            
                                         Rượu làng Vọc
Làng Vọc có nghề nấu rượu gạo truyền thống. Bao đời truyền nối, họ vẫn chỉ trung thành với một công thức chưng cất rượu: nấu bằng gạo ủ men ta - thứ men gồm 36 vị thuốc Bắc.
Dù tốn nhiều công và số lượng rượu làm ra không nhiều như các quy trình công nghiệp hơn nhưng đổi lại, rượu làng Vọc an toàn và tạo danh tiếng riêng.
Chỉ cần mở nắp chai rượu làng Vọc ra là ngửi thơm ngào ngạt hương gạo, vị đậm đà, ngọt mà không say, không đau đầu.
                                     
                                                                                                            Bún Tái Kênh
Làng Tái Kênh ghi tên trong bản đồ ẩm thực bằng món bún dẻo dai nức tiếng. Bún Tái Kênh trắng, trong, săn sợi và không dùng chất bảo quản.
Bún Tái Kênh làm từ gạo khi nấu phải khô như Khang dân hay Ải.
Qua nhiều giai đoạn ngâm gạo, xay gạo, nhào nặn bột, luộc, giã theo bí truyền riêng của gia đình, dòng họ trong làng mà mới có thành quả là những lá bún, vắt bún ngon lành.
Bún Tái Kênh được người dân trong vùng và các khu lân cận rất ưa chuộng. Người ta hay bảo nhau, bún này ăn với mắm cũng thấy ngon là có lý do của nó.

Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

BÁNH ĐA NEM LÀNG CHỀU


 

Con đường từ quốc lộ 1A, (đoạn qua tỉnh lộ 38 sang Hưng Yên) vào đến làng Chều (xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) dài chừng hơn 10 cây số. Làng Chều nổi tiếng khắp vùng cả trong và ngoài nước với sản phẩm bánh đa nem truyền thống có lịch sử hàng trăm năm.
 
Làng nghề 700 tuổi
Chúng tôi về làng Chều khi trời đã xế chiều, từng phên bánh đa nem trắng phau được người dân phơi kín quanh các đường làng, ngõ xóm. Vào những ngày nắng, không riêng gì làng Chều mà 11 trong 20 xóm của xã Nguyên Lý làm bánh đa nem, đâu đâu cũng thấy từng phên bánh đa trắng phau như thế, khắp đường làng, ngõ xóm như có hội vậy. Chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng khi được người dân nơi đây cho biết, làng Chều với nghề làm bánh đa nem truyền thống đã có lịch sử trên 700 năm.
 

Tại đình làng Chều, chúng tôi được các bậc cao niên trong làng kể lại câu chuyện về cụ tổ nghề. Nghề làm bánh đa nem xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XIV (năm 1314) do cụ tổ nghề là Trần Đình Hán chế biến từ hạt gạo, rồi đem truyền dạy lại cho dân làng. Ngày 8-2 âm lịch hằng năm là ngày giỗ tổ nghề đồng thời là ngày hướng kỵ Thành Hoàng tại đình Chều. Qua 700 năm thăng trầm, người dân làng Chều vẫn lưu giữ và duy trì và ngày càng phát triển nghề truyền thống.
 

Nem làng Chều được làm từ gạo tẻ, lựa chọn một cách kỹ lưỡng để chất lượng bánh được đảm bảo. Trải qua nhiều công đoạn, từ ngâm gạo, cho vào cối xay, làm chín qua nồi áp suất, đem phơi trên những chiếc phên tre và đoạn cuối cùng là hoàn thiện sản phẩm. Những chiếc bánh đa nem dưới bàn tay của người “nghệ sĩ” làm bánh được làm ra với màu bánh trắng, mềm và có độ dẻo cao, thơm mùi gạo. Bí quyết làm bánh đa nem được người dân trong vùng truyền cho nhau từ đời này qua đời khác. Từ nhỏ những đứa trẻ làng Chều đã được làm quen với nghề, đây có lẽ là lý do chính để nem làng Chều vẫn được duy trì, không bị thất truyền.


 Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, bánh đa nem khi đem phơi cần có đủ nắng. Nếu không, bánh sẽ ỉu và thiếu độ trắng cần thiết, nhưng nếu dư nắng, bánh sẽ cứng và nứt. Vì vậy công đoạn phơi bánh đa nem là một công đoạn khá công phu, cầu kỳ. Nghề làm bánh đa nem cũng có nhiều những khó khăn nhất định. Người dân làng Chều thường làm bánh đa nem quanh năm và thường vào những ngày nắng, tận dụng nhiệt độ ngoài trời để có thể phơi bánh đa nem.

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH CÔNG CÁ "TRỐI" HÀ NAM


Theo Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Nam, thông qua việc thực hiện dự án "Nghiên cứu bảo tồn, ứng dụng và phát triển loài cá trối tại thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam", loài cá trối quý hiếm của địa phương đã được bảo tồn và phát triển thành công.
Cá trối là một loài cá quý hiếm, đặc hữu có tại đầm Tam Chúc, nằm ở vị trí giáp ranh giữa thị trấn Ba Sao và xã Khả Phong, huyện Kim Bảng, Hà Nam.
Cá trối có hình  dáng bên ngoài giống cá quả, không có vây bụng. Gốc vây đuôi của cá trối có đốm tròn đen với vành trắng bao quanh như hình con mắt, đầu dẹp bằng, đỉnh đầu rộng và bằng thuôn về hai phía.
Cá có màu xanh hoặc xám hồng, phần lưng thẫm hơn, bụng trắng nhạt; có những con có nhiều hạt đốm trắng, vàng nhỏ phân bố dọc theo thân từ mang xuống đuôi.
Không những có hình dáng, màu sắc đẹp, thịt cá trối còn rất thơm, ngọt và không có xương dăm.
Do môi trường sống thay đổi và bị khai thác bừa bãi nên nguồn cá trối trong tự nhiên đã bị cạn kiệt.
Nhận thấy tính cấp thiết của việc bảo tồn, khôi phục một giống cá quý của địa phương, góp phần làm phong phú hơn nguồn lợi thủy sản tự nhiên, từ năm 2011, Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nam đã triển khai thực hiện dự án “Nghiên cứu bảo tồn, ứng dụng và phát triển loài cá trối tại thị trấn Ba Sao, Kim Bảng.”
Đến nay, đơn vị đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu và nội dung đề ra trong dự án như điều tra nghiên cứu hiện trạng nguồn lợi, vùng phân bố tại đầm Tam Chúc, thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng và xác định được tên loài trong hệ thống phân loại cá trối Hà Nam.
Những người thực hiện dự án cho biết hệ số thành thục cá trối trong ao nuôi nước tĩnh cao nhất vào tháng 4-5 và thấp nhất vào tháng 8-9; thuần hóa đàn cá thu gom ngoài tự nhiên đạt 76,7% và nuôi vỗ thành thục, cá phát dục tốt.
Đặc biệt, những người thực hiện dự án đã nghiên cứu thành công phương pháp sinh sản nhân tạo cá trối với tỷ lệ cá đẻ 67,5% (cộng trừ 12,5%); tỷ lệ trứng thụ tinh đạt 61,7% (cộng trừ 2,9%); tỷ lệ nở 48,17% (cộng trừ 11,83%).
Số lượng cá bột thu được là 2.167 con; ương cá bột lên cá hương và từ cá hương lên cá giống đạt tỷ lệ trung bình 66,25%.
Ông Trần Thăng Long, Trưởng phòng Quản lý Khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nam cho biết sau hơn ba năm thực hiện, thành công lớn nhất của dự án là đã thực hiện được phương pháp sinh sản nhân tạo giống cá trối - yếu tố quyết định đến việc bảo tồn nguồn giống; đồng thời xác định được vùng phân bố của cá trối trú ngụ chủ yếu trong khe đá, nước sạch, trong.
Đặc biệt qua các xét nghiệm, phân tích, nghiên cứu, có thể công bố tên loài cá đặc hữu thuộc vùng núi huyện Kim Bảng - cá trối Hà Nam (tên khoa học là Channa hanamensis).
Không những có giá trị về mặt khoa học, cá trối còn là loài đặc sản cho giá trị kinh tế cao. Nếu được đầu tư hợp lý, cá trối sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn cho người nuôi./.

BÀI "VÈ" ẨM THỰC HÀ NAM - VI DEO GIỚI THIỆU CÁ KHO LÀNG VŨ ĐẠI




ĐỀN BÀ VŨ


Đền Bà Vũ còn gọi là miếu vợ chàng Trương thuộc thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân.
Đền Bà Vũ còn gọi là miếu vợ chàng Trương thuộc thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân. Đền thờ bà Vũ Thị Thiết, người con gái phủ Nam Xang - một liệt nữ tiêu biểu có thật thế kỷ XVI .
Câu chuyện về bà đã được Nguyễn Dữ chép trong "Truyền kỳ mạn lục" và được dàn dựng trên sân khấu như các vở: Chiếc bóng oan khiên, Bài thơ treo dải yếm đào. Trong tín ngưỡng thờ thần của người dân Hà Nam, thánh bà Vũ Thị Thiết được thờ ngang với thánh Mẫu (Mẫu thủy).Ngày nay ngôi đền đã được tu sửa khang trang, là nơi khách thập phương và thuyền bè qua lại thường dừng chân thăm cảnh đền, cầu duyên rất linh ứng.

ĐÌNH VĂN XÁ


Đình Văn Xá thuộc thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, cách quốc lộ 62 khoảng 200m.
Đình Văn Xá thuộc thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, cách tỉnh lộ 62 khoảng 200m. Theo ngọc phả, thần phả sắc phong, truyền thuyết cùng các thư tịch văn bia còn lưu giữ, các vị thành hoàng được thờ ở đình Văn Xá là ông Cao Văn Phúc và bà Từ Thị Lang cùng hai vị Thuỷ thần.
Đình Văn Xá được xây trên khu đất rộng tại trung tâm làng. Đình quay theo hướng tây nam. Công trình gồm 2 toà kiến trúc theo kiểu chữ "Nhị", tất cả có 8 gian, tiền đường 5 gian, hậu cung 3 gian. Toà tiền đường được làm theo phong cách thời Hậu Lê, mái đình cong, thấp lợp bằng ngói mũi hài. Hậu cung mang phong cách thời Nguyễn theo kiểu chồng rường, các cột đều đặt trên hệ thống tảng đá xanh, có chạm hoa văn tròn đều theo chu vị chân cột. Thế đất cùng với nghệ thuật kiến trúc đã tạo cho di tích cảnh quan đẹp và hấp dẫn.
Đình còn giữ nhiều cổ vật quý như: ngai thờ hai vị thần rắn, hương án cổ từ thời Hậu Lê, cỗ kiệu mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII - XVIII, tấm bia "Song văn linh từ bi ký" gồm 2 bài văn bia ghi lại sự tích linh thần, 30 đạo sắc phong của các triều đình phong kiến từ thời Lê Trung Hưng đến thời Nguyễn dành cho ông Cao Văn Phúc và bà Từ Thị Lang cùng nhị vị Thuỷ tế Long Vương. Đình Văn Xá được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1962. 

ĐÌNH AN HÒA


Đình An Hoà thuộc xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm cách thành phố Phủ Lý gần 6km đi theo quốc lộ 1A về phía Ninh Bình. Đình An Hoà là công trình kiến trúc độc đáo của tỉnh Hà Nam, đình thờ hoàng tử Linh Lang và phò mã Kiều Đức Mậu thời Lý.
Đình An Hoà được xây dựng trên khu đất rộng, mặt trước có hồ nước trong xanh. Toà tiền đường là một công trình kiến trúc cổ mái cong, bốn mái trải rộng được lợp ngói mũi hài, bên trong đền còn lưu giữ được nhiều mảng chạm khắc độc đáo, quý hiếm như cảnh đua thuyền, người hổ giao tranh, voi ngựa đồng hành, long, ly, quy, phượng..
Đến với điểm du lịch đình An Hoà, bên cạnh việc thưởng ngoạn phong cảnh, kiến trúc của đình, du khách còn được tìm hiểu và hoà cùng không khí nhộn nhịp của làng nghề thêu ren truyền thống nổi tiếng - làng thêu ren An Hoà.

ĐỀN LĂNG


Đền Lăng thuộc xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, nằm dưới chân núi Cõi, nơi đây thờ vua Lê Đại Hành cùng hai con của ông là Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều.
Đền Lăng thuộc xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, nằm dưới chân núi Cõi, nơi đây thờ vua Lê Đại Hành cùng hai con của ông là Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều.
Ở khu vực này có nhiều dấu tích liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Lê Đại Hành như khu Mả Dấu, khu Dàn Thề. Tương truyền ông nội của Lê Hoàn quê ở làng Bảo Thái có nuôi con hổ trắng ngày ngày cùng đi đổ đó ở cánh đồng. Một hôm ông đi đổ đó sớm, con hổ không nhận ra chủ, nên đã vồ ông, sau đó hổ cõng xác về đặt ở khu đất đầu làng, sáng hôm sau mối xông thành mộ, từ đó người  dân nơi đây thường gọi  là Mả Dấu.
Đến đền Lăng du khách được tham quan vẻ đẹp của ngôi đền cổ và lên đỉnh núi Cõi, phóng tầm mắt bao quát cả khu vực đồng bằng rộng lớn, nơi mà Lê Hoàn đã chỉ huy đội quân tập luyện và chiến đấu chống quân xâm lược nhà Tống.

ĐÌNH VỊ HẠ


Đình Vị Hạ thuộc thôn Vị Hạ, còn có tên là Và Hạ, xã Trung Lương huyện Bình Lục. Đình Vị Hạ nằm gần quốc lộ 21, cùng thôn có từ đường Nguyễn Khuyến.
Đình Vị Hạ thuộc thôn Vị Hạ, còn có tên là Và Hạ, xã Trung Lương huyện Bình Lục. Đình Vị Hạ nằm gần quốc lộ 21, cùng thôn có từ đường Nguyễn Khuyến.
Đình Vị Hạ được xây dựng theo kiểu chữ Đinh bao gồm hai toà: tiền đường năm gian, chính tẩm ba gian. Trước sân đình Vị Hạ có tấm bia  ‘‘Vị thị kiều bi ’’ ( bia cầu chợ Vị) đây là bia tứ giác, cao 0,95m, cạnh 0,41m, là dạng bia vuông, chóp bia kiểu Long Đình tạo bốn mảng trang trí, mỗi mảng chạm nổi một đề tài tứ linh trong khung lá đề. Riềm bia chạm triện gấm, hoa lá cùng Long chầu, ly, quy, phượng theo nhiều kiểu dáng khác nhau. Kiểu bát cống đại tự, câu đối ở đây cũng được gia công chạm khắc, sơn son thiếp vàng theo chất liệu và kỹ thuật cổ truyền, góp phần cho di tích thêm phần độc đáo, hấp dẫn.
Đình Vị Hạ thờ 4 vị thành hoàng như : Lãng Vương cư sĩ, Thiên Cương Định Cát tôn thần, đặc biệt  là thờ Đông Hải Đại vương Nguyễn Phục và Chu Đương đại vương.
 Đây là ngôi đình có giá trị kiến trúc, chạm khắc mang đậm phong cách thời Hậu Lê còn lại không nhiều trên đất Hà Nam. Từ thành phố Phủ Lý theo quốc lộ 21 du khách tham quan các điểm đình Vị Hạ, Từ đường Nguyễn Khuyến trên tuyến du lịch Hà Nam - Nam Định - Thái Bình.

TỪ ĐƯỜNG NGUYỄN KHUYẾN


Từ đường Nguyễn Khuyến thuộc thôn Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục.
Từ đường Nguyễn Khuyến thuộc thôn Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục. Khu từ đường nằm trong cảnh quan thơ mộng với ao thu, ngõ trúc, vườn Bùi, là nơi thờ Nguyễn Khuyến và lưu giữ các kỷ vật, các bức hoành phi, câu đối của các bậc đại sĩ tặng nhà thơ, các bức ảnh về quan trường, các tác phẩm của ông.
Đến đây du khách vừa được thưởng ngoạn cảnh làng quê xưa qua những tác phẩm bằng thơ, vừa thả hồn bên ao thu trong bóng cây xanh với những ‘‘ngõ trúc quanh co’’ - nét đặc trưng của nhà thơ làng cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX.

KHU TƯỞNG NIỆM NHÀ VĂN NAM CAO


Khu tưởng niệm nhà văn, liệt sĩ Nam Cao thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân.

Khu tưởng niệm nhà văn, liệt sĩ Nam Cao thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân. Đây là nơi lưu giữ những hiện vật gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp nhà văn Nam Cao. 

Nhà văn, liệt sĩ Nam Cao (1917-1951) tên thật là Trần Hữu Tri, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX, có đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn xuôi nghệ thuật, có một số tác phẩm đạt đến mức kinh điển của văn học hiện đại Việt Nam.

Đến với khu tưởng niệm nhà văn Nam Cao, du khách sẽ được thăm quan lại ngôi nhà Bá Kiến, khu chợ Bến, chiếc lò gạch đổ…những địa danh gắn liền với  những nhân vật trong tác phẩm văn học của ông. Du khách được thưởng thức những đặc sản quê hương như chuối ngự Đại Hoàng, cá kho Nhân Hậu, tham quan làng nghề dệt truyền thống của làng Vũ Đại và được tham gia lễ hội nổi tiếng - lễ hội thả diều.

BÁNH CUỐN CHẢ NƯỚNG - PHỦ LÝ


Là món ăn của vùng quê Hà Nam. Bánh cuốn được làm từ loại gạo tẻ ngon, trắng ngần và tráng mỏng được ăn kèm với chả nướng.
Là món ăn của vùng quê Hà Nam. Bánh cuốn được làm từ loại gạo tẻ ngon, trắng ngần và tráng mỏng được ăn kèm với chả nướng. Chả được làm từ thịt lợn, được tẩm ướp nhiều gia vị, sau đó được nướng trên than hồng.

Chả nướng sẽ được chan nước chấm nóng với đủ vị mặn, ngọt, chua, cay, nhưng các vị đều rất hài hòa . Với bàn tay khéo léo, tinh tế của những người thợ làm bánh cùng với những bí quyết riêng trong việc chế biến nguyên liệu đã tạo nên hương vị độc đáo, hấp dẫn cho món ăn này và ngày càng chinh phục được rất nhiều thực khách.
Đến Hà Nam, du khách có thể thưởng thức món bánh cuốn chả ở một số quán ăn trong thành phố Phủ Lý như: Minh Đình, Minh Trang (đường Trần Phú), Minh Ngọc (đường Trường Chinh),  ....

CÁ KHO NHÂN HẬU - LÝ NHÂN


Cá kho Nhân Hậu là món ăn nổi tiếng của quê hương nhà văn Nam Cao. Cá để kho thường là cá trắm đen vì thịt của nó chắc lại thơm.
Cá kho Nhân Hậu là món ăn nổi tiếng của quê hương nhà văn Nam Cao. Cá để kho thường là cá trắm đen vì thịt của nó chắc lại thơm. Gia vị bao gồm: gừng, giềng, nước tương cua và một số gia vị truyền thống. Với kỹ thuật gia truyền của người dân Nhân Hậu trong chế biến đã làm cho miếng cá kho mang hương vị riêng hiếm thấy.

Nếu một lần được nếm món cá kho Nhân Hậu chắc hẳn bạn sẽ không bao giờ quên được hương vị đặc trưng riêng có. Cá kho Nhân Hậu đã thực sự trở thành món quà ẩm thực quý hiếm dành cho du khách trong dịp về thăm Hà Nam vào những dịp Tết Nguyên đán.

CHUỐI NGỰ ĐẠI HOÀNG LÝ NHÂN


Chuối Ngự Đại Hoàng là sản phẩm đặc sản nổi tiếng của vùng quê Đại Hoàng, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
Chuối Ngự Đại Hoàng là sản phẩm đặc sản nổi tiếng của vùng quê Đại Hoàng,  xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam,trước đây chuối ngự dùng để tiến vua. Khi chín, vỏ chuối mỏng có màu vàng óng như tơ, chuối có mùi thơm dịu, ruột quả màu vàng nghệ, ngọt mát mà khó có loại chuối nào sánh được.
Chuối ngự Đại Hoàng vừa ngon, bổ nhưng hiếm và quý bởi không có nơi nào trồng được ngoài vùng đất Đại Hoàng. Đây là nét đặc thù riêng có mà thiên nhiên đã ban tặng cho quê hương Hà Nam.

ẨM THỰC HÀ NAM (DÊ NÚI - KIM BẢNG)


Thịt dê được chế biến từ loại Dê nuôi ở vùng núi đá Kim Bảng và Thanh Liêm, được làm thành nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng và trở thành món đặc sản của Hà Nam.
Thịt dê được chế biến từ loại Dê nuôi ở vùng núi đá Kim Bảng và Thanh Liêm, được làm thành nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng và trở thành món đặc sản của Hà Nam. Đây cũng là món ăn được nhiều du khách ưa thích khi đến với Hà Nam.



Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

LỄ HỘI ĐỀN TRẦN THƯƠNG


Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đền là di tích tiêu biểu của tỉnh Hà Nam và cả nước, hội tụ nhiều giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật, tâm linh, lâu nay được nhiều người biết tiếng. Đền thờ vị anh hùng dân tộc Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng gia quyến và các Bộ tướng có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII.

Giá trị lịch sử - văn hóa đền Trần Thương.


 

Trần Thương là mảnh đất địa linh, trù phú như câu ca truyền đời “Cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc ghi trên bức châm tại đền: “Trần Thương dư phúc địa, trà thảo tứ thời xuân” (đất Trần Thương lắm phúc, hoa quả bốn mùa xuân). Trước đây, Trần Thương là trung tâm “Lục khê đầu” (sáu khe nước). Từ đây có thể ngược sông Hồng đi Thăng Long rồi ra biển, qua sông Hồng về phía Đông khoảng 3km là khu Tam Đường (Hưng Hà, Thái Bình), nơi đặt lăng mộ của nhà Trần, về phía Nam khoảng 20 km là đền Trần – chùa Tháp (Nam Định).
   


Đền Trần Thương là một trong 3 ngôi đền lớn của cả nước, nơi thờ chính Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tương truyền trên đường đi đánh quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo thấy địa thế nơi đây hiểm yếu, bèn đặt 6 kho lương để phục vụ cuộc kháng chiến. Địa điểm ngôi đền hiện nay là kho lương chính. Sau khi chiến thắng trở về, ngài đã cắm sinh phần, lấy đây làm dân “tạo lệ” và từ đó xuất hiện thôn Trần Thương và các thôn khác như: Đội Xuyên, Hoàng Xá, Khu Mật… những tên cổ gắn với việc đồn trú của quân đội nhà Trần. Trong số các di tích thờ Trần Hưng Đạo Đại Vương trên đất Hà Nam và cả nước, đền Trần Thương là di tích tiêu biểu, có quy mô kiến trúc lớn, Ngôi đền thâm nghiêm, cổ kính tọa lạc trên đất thiêng “Hình nhân bái tướng” “Ngũ mã thất tinh”, được xây kiểu “Tứ thủy quy đường”. Tổng thể kiến trúc cảnh quan ngôi đền gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, 5 tòa, 15 gian, chia thành 3 cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và hai giải vũ, 5 giếng…Kiến trúc độc đáo và cảnh quan tự nhiên của đền Trần Thương như nhập đời vào đạo, nhập con người với vũ trụ trong một không gian văn hóa linh thiêng. Giá trị đền Trần Thương còn được thể hiện ở phần trang trí kiến trúc với các đề tài, họa tiết được chạm khắc công phu như: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước, mây trời…Tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa sống động, vừa cổ kính trang nghiêm hàm chứa triết lý dân gian.
Đồ thờ, cổ thư của ngôi đền cũng rất phong phú, quý hiếm. Đặc biệt là pho tượng Đức Thánh Trần trong ban thờ hậu cung với vẻ mặt uy nghiêm của một vị “Thánh” nhân, nhưng vẫn nở nụ cười bao dung, đôn hậu. Tổng thể kiến trúc, cảnh quan đền Trần Thương đã gợi lên bóng dáng phủ đệ của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Với những giá trị về lịch sử, văn hóa đặc sắc, năm 1989 đền Trần Thương đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia.

Lễ hội đền Trần Thương



 

“Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ”. Từ bao đời nay, nơi đây cùng các địa phương thờ Trần Hưng Đạo, mở hội vào dịp trung tuần tháng 8 (âm lịch), đặc biệt là ngày 20 tháng 8, ngày Đại vương qua đời. Dân gian có câu: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Vào ngày lễ hội, từ Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương đến đền Trần Thương, Lý Nhân, Hà Nam về đến Bảo Lộc (Nam Định) khách hành hương theo lộ trình chiêm bái, tôn vinh người anh hùng dân tộc, đã được truy tôn là bậc “Thánh”, ban những điều tốt lành, mong làm việc thiện.
Đền Trần Thương hàng năm mở hội từ 18 đến 20 tháng 8 (âm lịch), một lễ hội vùng tiêu biểu của tỉnh Hà Nam, thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương. Trong lễ hội diễn ra nhiều hoạt động văn hóa dân gian, tục thi đặc sắc, độc đáo nhất là lễ rước nước và thi bơi chải trên sông. Các nghi thức trên vừa mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận, gió hòa, “Phong đăng, hòa cốc”, “Quốc thái dân an”, nhắc nhở đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đồng thời gợi nhớ nguồn gốc của dòng tộc nhà Trần vốn quen nghề sông nước. Bên cạnh đó còn tổ chức “Diễn sướng Thanh đồng”, một lễ nghi đặc sắc có từ lâu đời của đền Trần Thương với sự tham gia đông đảo của các “cơ cánh” đến từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đặc biệt vào giờ Tý ngày rằm tháng Giêng hàng năm còn mở Lễ phát lương ban lộc đầu năm của Đức Thánh Trần cho nhân dân và khách thập phương.

 

Để bảo tồn và phát huy các di tích đặc sắc của di tích, năm 2009, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đã phê duyệt quy hoạch tổng thể và chi tiết di tích Lịch sử - Văn hóa đền Trần Thương giai đoạn 2009-2015, với 5 khu chức năng chính gồm: Khu vực bảo tồn các di tích Lịch sử - Văn hóa: Đền Trần Thương, đình Tróc, chùa Di, đền Khu Hoàng; Khu du lịch thương mại, khu du lịch sinh thái; khu vực lễ hội và khu các trò chơi dân gian với tổng diện tích quy hoạch 100ha.
Năm 2009, đền Trần Thương đã được Nhà nước quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo lớn toàn bộ kiến trúc chính: Cung Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam, hai giải vũ, giếng, đường vào đền và nghi môn với nguồn vốn trên 16 tỷ đồng. Đồng thời đầu tư cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, làm đường giao thông mới vào di tích. Tương lai không xa, trên mảnh đất này sẽ có cây cầu lớn bắc qua sông Hồng nối liền Hà Nam với các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng…Đây sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi để khu di tích Lịch sử - Văn hóa tâm linh đền Trần Thương phát huy tốt các giá trị, trở thành điểm du lịch tâm linh, tín ngưỡng quan trọng của tỉnh Hà Nam, là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước.


 

Trên lộ trình về đền Trần Thương du khách còn được tham quan các di tích cấp Quốc gia tiêu biểu: Đình Vĩnh Trụ, đình Văn Xá, đền Bà Vũ, đình Trác Nội, thăm quê hương nhà văn-liệt sĩ Nam Cao. Đền Trần Thương, điểm quy tụ để nhân dân, khách thập phương xa gần, hành hương tưởng nhớ về nguồn cội, chiêm ngưỡng di tích lịch sử văn hóa và cầu nguyện may mắn trong cuộc sống./.