Social Icons

Pages

Hiển thị các bài đăng có nhãn vo dao. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn vo dao. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 21 tháng 9, 2015

Học võ là học đạo làm người là nền tảng.

Võ thuật không chỉ là môn học về kỹ thuật luyện tập chiến đấu, không chỉ là một môn nghệ thuật mà còn là môn khoa học nữa. Bởi vì hình thức của nó được xây dựng từ các lý thuyết căn bản của khoa học tự nhiên như vật lý học, sinh học đồng thời nội dung của nó chứa đựng lý thuyết của khoa học xã hội như triết học, nhân văn….. Tính triết lý và nhân văn đó chính là nét để khu biệt võ thuật với các môn thể thao khác. Bởi lẽ người ta chỉ gọi là Nhu đạo (Judo), Không thủ đạo (Karate), Hiệp khí đạo (Aikido), Thái cực đạo (Teakowndo), Việt Võ Đao (Vovinam), chứ không ai gọi là bóng đá đạo, cầu lông đạo hay quần vợt đạo bao giờ cả. Chữ “Đạo” trong võ được xã hội hóa và ăn sâu trong máu thịt các dân tộc có nền võ học lâu đời như Nhật bản, Trung quốc, Triều tiên, Việt nam …… Như vậy, võ học được hình thành từ sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức, tất cả mọi chuyển động cơ học của các kỹ thuật tay chân đều ngầm chứa nội dung mang tính đạo lý và nhân bản sâu sắc. Suy cho cùng, trong sâu xa võ có hai phần: thuật và đạo. Thuật chỉ đủ để giúp người ta biết võ. Còn đạo mới đưa người ta đến tận cùng của cái biết võ mà hành võ. Đạo chính là đẳng cấp cao nhất mà người tập võ chân chính phải phấn đấu đạt đến.

Tiếng “Đạo“ của người phương Đông – nơi nhu cầu và tài nghệ con người được nghệ thuật hóa và triết học hóa tới cao độ. Quả thật, chưa có một từ ngữ tương đương nào của người phương Tây có thể dịch thoát, vì đạo ngoài ý nghĩa là “con đường“, là “thông lộ” còn bao hàm cả ý nghĩa về tôn giáo, luân lý và nghệ thuật. Ví dụ : Uống trà là nhu cầu thông thường, nhưng biết cách thưởng thức trà và những ý nghĩa thanh cao của việc uống trà kết bạn, giúp ích xã hội thì đó là Trà Đạo. Ngắm nghía và thưởng ngoạn hoa là thú vui thông thường trong cuộc sống, nhưng biết cách thưởng ngoạn như 1 nghệ thuật và nâng cao nữa về đạo lý giúp ích cho cuộc sống thì là Hoa đạo… vv…..
Khác võ thuật Trung Hoa cũng như Việt Nam nặng về xuất thế và cố giữ vị thế độc lập với chính trị, võ thuật Nhật Bản có truyền thống hội nhập ngay vào mọi sinh hoạt chính trị để hình thành một giai cấp trong xã hội Nhật Bản đó chính là tầng lớp Samourai (Võ Sĩ Đạo). Người Võ Sĩ Đạo được huấn luyện ngay từ nhỏ những kỹ thuật chiến đấu tay không và vũ khí rất lành nghề và quan trọng nhất vẫn là rèn luyện tinh thần Nhật Võ Đạo với những điều luật được ghi chép rõ ràng. Tinh thần đó tạo nên nét đặc trưng của người Võ Sĩ Đạo, bao gồm 5 đức tính tính chính (sự ngay thẳng, đức can đãm, lòng nhân từ, đức lễ phép, đức tự kiểm) và 3 đức tính phụ (đức vâng lời, đức trung tín, đức yêu việc).
Xưa nay các môn võ phương Đông dù khác nhau ở chiêu thức, nhưng đều có điểm giống nhau ở môn qui: không phản môn, phản thầy; không khoe tài, không ỷ lực hiếp người; không háo sắc, loạn dâm; không thắng vui, thua buồn… Tuy nhiên, người Nhật Bản có điểm khác biệt cơ bản các dân tộc ở quốc gia châu Á khác như Việt Nam, Trung Quốc và nhất là tại các nước Tây phương, chính ở chỗ quan niệm về học võ của họ. Người Nhật Bản đến võ đường với mục đích cao quí là học tập và rèn luyện cái “Đạo” trong võ học, còn đòn thế và cách thi triển chỉ là thứ yếu. Trong khi ở Việt Nam người ta đi học võ với mục đích rất “tầm thường” và thiên về mục đích cá nhân. Họ đi học võ để tự vệ, học để giữ gìn sức khỏe bản thân, rèn luyện để chữa bệnh, để làm việc nghĩa hiệp bênh vực kẻ yếu, có khi chỉ vì bạn bè rủ rê cho vui ……“Trà như ẩn sĩ, rượu như hào sĩ, võ như lực sĩ. Rượu để kết bạn, trà để hưởng tĩnh, võ để luyện thần “

Người ta thường nói “võ nghệ “ hay “võ thuật” với hàm ý trong võ có nghệ thuật hay võ là một nghệ thuật đặc biệt nhằm chiến thắng hoặc chinh phục một đối thủ nào đó . Nhưng, người ta còn gọi là “võ đạo” , đó là một sự tôn xưng một khi võ thuật đã đạt được cái vi diệu, cái lẽ tối thượng của nó. Khi đó nó đã tự phát lộ được khả năng soi sáng, khả năng giác ngộ, để con người không chỉ vượt thắng đối thủ, vượt thắng ngoại giới, mà cái chính là “vượt thắng chính mình”, tự hoàn thiện nhân cách, tự soi sáng tâm linh mình qua một quá trình rèn luyện gian khổ, qua hành trên con đường chông gai để đạt tới đạo .Đạo ấy của võ cũng giống như đạo Thiền, là quá trình tự khai sáng. Tổ sư Phật giáo thiền tông Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) tương truyền vừa là người khai sáng đạo thiền vừa là người khai sáng môn võ Thiếu Lâm. Hành trình khai sáng ấy trải qua suốt 9 năm trời ông “diện bích” – quay mặt vào vách đá trong hang động trên đỉnh núi Tung Sơn để Tham Thiền nhập định, lấy cái tĩnh mở thông cho cái động, lấy sự tịnh tâm làm đích cho mọi hoạt động của mình sau này, dù đó là hoạt động tôn giáo hay võ thuật.
Có ai bước vào nghề võ mà không vài lần nghe thầy dạy bảo: “Khi mới học võ, tôi chỉ có mong muốn là nắm được đòn thế cao siêu. Lên được đai đen, đai đỏ, tôi lại muốn mình phải thật giỏi để đánh thắng người khác. Nhưng bây giờ, mục đích lớn nhất của tôi chính là phải chiến thắng chính bản thân mình”. Trên các bức tường của võ đường hay treo đại tự “Nhẫn”. Bởi chính đó là nền tảng hun đúc nên tinh thần thượng võ. Chuyện võ kể rằng: Có một đại cung thủ đã đạt đến mức độ thượng thừa có thể “bách bộ xuyên dương”, đi trăm bước ngoảnh đầu lại bắn trúng lá liễu. Cả đời cung thủ này chỉ có một tâm nguyện duy nhất là tìm người để được thua. Ngày kia, theo lời chỉ dẫn của giới võ lâm, anh quyết lên ngọn Hoa sơn thi thố tài năng với một đại sư lừng danh đã ẩn tu. Vị đại sư đồng ý cùng anh leo lên một mỏm đá cheo leo cao nhất. Giữa cuồng phong gào rít, cung thủ chỉ đứng không đã muốn té, nói gì giương cung, lắp tên thi bắn đại bàng. Cuối cùng anh chịu thua và chuyển cung cho vị đại sư trổ tài. Thật bất ngờ, đại sư lại vứt cung xuống vực rồi bình thản nói: “Tôi đã bỏ tiền ra mua được một con đại bàng thật đẹp, thì khổ chi phải leo lên tận đây chịu nguy hiểm để bắn nữa…”. Như tuyết rơi giữa mùa hè. Như tia chớp lóe sáng ngay buổi bình minh. Đầu óc cuồng mê bất bại của cung thủ ngỡ ngàng đại ngộ! Anh lặng lẽ xuống núi, bẻ cung, ngồi thiền và viết ra dòng chữ “Dụng ý bất dụng lực”.

Như vậy thì con đường cũa võ khá gần gũi và thân mật với con đường của người làm nghệ thuật, nó đều khởi từ tâm và qua một quá trình vận động lại trở về tâm, theo một đường xoáy trôn ốc nào đó. Có lẽ người điển hình cho sự hợp nhất hòa đồng giữa Đạo, Võ và Thơ là Lý Bạch. Là một thi hào bậc nhất , luôn đứng ở Top Ten các thi sĩ mọi thời đại, Lý Bạch cũng là một kiếm sỹ lừng danh , một đạo sỹ bí ẩn của Trung quốc.

Và cũng để nói rằng, ở đời tự vượt thắng mình là con đường gian khó biết bao, và con đường ấy dẫn tới “hòa nhi bất đồmg” – hòa mà không đồng – là dẫn tới những cá tính nghệ thuật của nghệ sỹ, dù là kiếm sỹ hay thi sĩ. Hòa với người, hòa với Đại Ngã, nhưng “bất đồng”– vẫn là mình như một cá tính sáng tạo, một cái gì không lặp lại, như những đường kiếm biến ảo, dù nó vẫn theo lực hướng tâm. Ngày nay, nhiều môn võ được đưa ra thi đấu quốc tế tranh thắng thua. Mặt tích cực của nó là giúp người luyện võ tinh thần phấn đấu, rèn luyện sức khỏe, võ thuật. Nhưng nếu chỉ chú tâm vào chiến tích thấy được, e dễ rơi vào cuồng vọng thắng người mà quên mất phải tự thắng chính mình, sự chiến thắng thượng thừa nhất của người luyện võ.

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2015

BÀI HỌC TỪ THẦY DẬY VÕ

Lúc còn học võ mình luôn có một thắc mắc, tại sao có 1 đòn mà ngày nào thầy cũng bắt tập tới tập lui, muốn tập những chiêu thức mới, thì thầy cũng đồng ý nhưng thời lượng tập không nhiều, chủ yếu là những còn căn bản. Mình chia sẽ bài này mọi người sẽ hiểu vì thầy lại làm như vậy.

Một cậu bé 10 tuổi quyết định học môn võ Judo cho dù cánh tay trái của cậu đã mất trong một tai nạn xe hơi. Cậu theo học Judo với một võ sư Nhật.
Vì tin rằng mình đã học tập rất chuyên cần và sự tiến bộ nên cậu vô cùng thắc mắc tại sao sau ba tháng tập luyên mà thầy chỉ dạy cho mình mỗi một thế võ duy nhất. Cuối cùng, không kiên nhẫn nổi nữa, cậu bé hỏi thầy:
-Thưa thầy, chẳng lẽ con không thể học được các thế võ khác sao?
Ông trả lời:
- Đây là thế võ duy nhất thầy dạy cho con, cũng chính đó là thế võ duy nhất mà con cần phải học.
Tuy không hiểu hết lời thầy nhưng tin tưởng ở nơi thầy, cậu bé tiếp tục tập luyện.
Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu bé đến tham dự một cuộc thi judo. Cậu bé rất ngạc nhiên khi thấy mình thắng dễ dàng trong hai trận đầu. Trận thứ ba khó khăn hơn nhưng sau một hồi, đối phương mất kiên nhẫn trong các đòn tấn công, cậu bé đã khéo léo sử dụng thế võ và chiến thắng. Vẫn chưa hết ngạc nhiên vì thành công của mình, cậu tự tin bước vào trận chung kết.
Lần này, đối thủ của cậu là một võ sinh cao lớn, to khỏe và dày dạn kinh nghiệm hơn. Vào trận không lâu, cậu bé đã liên tiếp trúng đòn và hòan toàn bị đối phương áp đảo.
Hết hiệp đầu, sợ cậu bé bị thương, trọng tài ra hiệu để kết thúc trận đấu sớm nhưng người thầy của cậu không đồng ý:
- Cứ để cậu bé tiếp tục. Võ sư yêu cầu.
Ngay sau khi trận đấu bắt đầu lại, đối phương phạm phải sai lầm nghiêm trọng: anh ta coi thường đối thủ và mất cảnh giác. Ngay lập tức cậu bé dùng thế võ duy nhất của mình quật ngã đối phương và khóa chặt anh ta trên sàn. Cậu bé đã đọat chức vô địch. Trên đường về, hai thầy trò ôn lại các thế đánh trong từng trận đấu.
Lúc này cậu bé mới thu hết can đảm nói ra cái điều ám ảnh trong đầu mình bấy lâu nay:
- Thưa thầy, làm sao con có thể trở thành vô địch chỉ với một thế võ như thế?
- Con chiến thắng vì hai lý do. Người thầy trả lời.
- Lý do thứ nhất, con gần như đã làm chủ được một trong những cú đánh hiểm và hiệu quả nhất của môn võ này. Lý do thứ hai, cách duy nhất mà đối thủ của con phá được thế võ đó là họ phải giữ chặt cánh tay trái của con lại mà con lại không có cánh tay trái.
Đôi khi, một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Hãy tin vào chính mình, bạn có thể làm được tất cả!

Vovinamhanam.com


"CON NHÀ VÕ"


“Con nhà võ” được sử dụng không phải để nói đến những người con, cháu trong một dòng võ mà là bao gồm tất cả những người đã chọn con đường võ nghiệp để đi theo suốt đời.
Đối với con nhà võ, nếu làm thầy thì việc đại nghĩa là tận tụy dạy dỗ cho học trò nên người hữu dụng mà không ngại hao tâm tổn trí, là bảo tồn, lưu truyền, phát triển môn võ cổ truyền cuả dân tộc cho võ lâm chứ không chỉ cho riêng mình, là nâng cao uy danh của môn võ cổ truyền trở thành niềm tự hào của con dân đất Việt mà không kể công lao.
Con nhà võ nói năng lưu loát nhưng không khoác loác, khoe khoang, không ma mị để lừa dối người khác và cũng không chịu để cho người khác tâng bốc mình bằng cách “thêm muối, dặm đường”, chuyện không dựng lên nói có.
Con nhà võ không để cho báo chí viết về mình là “đệ nhất thiên hạ”, là “người vàng, người ngọc”, là “người duy nhất còn nắm giữ thập bát ban võ nghệ”, là “võ sĩ thóp bụng giữ chặc đầu đối phương rồi phình ra cho đối phương ngã ngửa trên võ đài phải chở vào bệnh viện cấp cứu”, ...
Đối với con nhà võ thì việc giữ chữ tín hết sức quan trọng. Nó là thước đo phẩm chất của từng con người. Con nhà võ không thể nói “huyên thuyên chi địa” đầy rẫy những lời hứa hẹn. Thực tế thì những lời huyên thuyên, hứa hẹn ấy chỉ để đề cao cá nhân, để chứng tỏ là mình đang nắm nhiều quyền lực và để phỉnh dụ người khác ủng hộ những việc đang làm của mình. Những lời huyên thuyên ấy không bao giờ là sự thật.
Khi nói đến con nhà võ, người ta nghĩ ngay đến những người nghĩa khí, có lòng dạ ngay thẳng, “ăn to nói lớn”, giữ chữ “tín”, và đề cao lòng tự trọng.
Người nghĩa khí là người hào hiệp, người sẵn sàng chấp nhận hy sinh cho việc nghĩa.
Việc nghĩa ở phạm vi hẹp là việc ra tay cứu giúp người khác đang gặp khó khăn, hoạn nạn, đang sa cơ thất thế, việc ra tay đó được gọi là “nghĩa cử”. Khi người nghĩa khí đã ra tay nghĩa cử thì họ không sợ gian nguy, chỉ nghĩ đến hy sinh cho người khác
Việc nghĩa ở phạm vị rộng là công việc đại sự, lớn lao, mang lợi ích đến cho nhiều người, việc đại sự đó được gọi là “đại nghĩa”. Khi người nghĩa khí đã tham gia đại nghĩa thì họ sẵn sàng dấn thân, gánh vác công việc nặng nhọc, tự nguyện chấp nhận hy sinh, thiệt thòi về phần mình.
Con nhà võ không tu dưỡng, rèn luyện để trở thành thần thánh, cũng không để thành bậc đại trượng phu. Họ chỉ rèn luyện cái “Đức” cả đời để xứng đáng với mỹ từ “Con nhà võ” mà nhân gian tôn tặng.

Vovinamhanam.com

VÕ HỌC VÀ NGƯỜI HỌC VÕ

 

Người đời, kể cả nhiều người tập võ thường hiểu một cách khá đơn giản, phiến diện về võ học. Họ thường cho rằng học võ đơn thuần là giúp người ta tăng cường sức khỏe, sự dẻo dai và nhất là giúp người ta khắc địch thủ, thắng bằng những kỹ thuật chiến đấu.

Hiểu như vậy chưa đúng lắm. Thực vậy, ngoài những điểm nêu trên, võ học còn mang lại cho ta những đức tính vô cùng đáng quý trong cuộc sống, đó là lòng dũng cảm, sự trầm tĩnh, khiêm nhường, vị tha, nghị lực và sức chịu đựng. Người học võ am hiểu được võ học chỉ dùng vũ lực để giáo hóa cảnh tỉnh đối phương chứ tuyệt nhiên không phải để thỏa mãn sự hiếu thắng của mình. Tuy nhiên, việc dùng vũ lực là hết sức hạn chế. Người học võ phải luôn tự kiềm chế mình, nhường nhịn để tránh dùng vũ lực, đó chính là sự rèn luyện võ đạo. Người võ sĩ thấm nhuần tinh thần võ học phải là người hiếu hòa, khiêm nhượng, có thể đánh thắng đối thủ, nhưng không đánh mà dùng cách ôn hòa để giải quyết, đó là tinh thần thượng võ. Tuy nhiên,muốn thắng người trước hết phải thắng mình, phải thắng được sự khiếp nhược hay tức giận ở mình.
Tập võ để khỏe mạnh, chiến đấu tốt đã khó, nhưng để thấm nhuần tinh thần thượng võ của võ học càng khó vô cùng. Do đó, người luyện võ phải luôn tự trau dồi cho bản thân mình những điều cần thiết đã thấm nhuần tinh thần võ học.

Kiến thức võ học

Kiến thức võ học mênh mông như biển. Ngoài việc phát huy những kiến thức cổ truyền, ta còn phải luôn luôn học hỏi kiến thức nước bạn, rút ra những cái tinh hoa, cải tiến cho hợp với thể trạng và tinh thần dân tộc ta.

Sức mạnh tiếm ẩn

Sức mạnh trong võ thuật có hai dạng chính: Sức mạnh có thể thấy được và sức mạnh tiềm ẩn.
Sức mạnh có thể thấy được là do rèn luyện ngoại công: Chạy nhảy, múa quyền, luyện cước, vận khí, điều tiết kết hợp với suy tưởng. Sự gạt bỏ tạp niệm, tập trung suy tưởng và vận khí đúng cách sẽ giúp ta phát huy hết được những năng lực to lớn tiềm tàng trong người cũng như hấp thụ những năng lượng không nhỏ trong thiên nhiên (Khí trời, ánh dương, …).


Chịu đựng

Trong luyện tập có nhiều gian khổ, nếu không có sức chịu đựng thì khó lòng tới được thành công.
Rèn luyện sức chịu đựng cũng là rèn luyện tính kiên nhẫn và nghị lực.
Có được ba điều này, ta có thể dũng cảm vượt qua được mọi gian nan, trắc trở trong cuộc đời.

Điềm tĩnh

Điềm tĩnh chính là yếu tố không thể thiếu trong đức tính một người luyện võ. Vì chỉ khi thật điềm tĩnh, ta mới có thể lý luận một cách logic, tìm xem cách thức giải quyết tối ưu trong hoàn cảnh khó khăn, nhất là trong hoàn cảnh phải dùng lực để giải quyết.

Tự tin

Người học võ không thể thiếu đức tự tin. Phải tự tin mới có thể thắng người hay tự thắng mình, nếu không tự tin, ắt thất bại sẽ tới. Tuy nhiên tự tin, biết mình, nhưng cũng phải biết người, như thế ta mới tránh được những thất bại đáng tiếc.

Kết luận

Khi đã có được một kiến thức võ học rộng rãi, một sức mạnh tiềm ẩn, một sức chịu đựng, có sự điềm tĩnh, tự tin … và một ý chí không ngừng học hỏi trau dồi sáng tạo, chắc chắn bạn sẽ đạt tới được những đỉnh cao mà bạn không ngờ. Tuy nhiên trong võ học thì không biết đâu là đỉnh cao nhất, vì như tôi đã nói: Võ học là mênh mông vô cùng cũng như tâm hồn con người vậy. Và chính trên con đường đi tới cái vô tận ấy, ta sẽ có được một món quà vô giá: ĐẠO ĐỨC VÕ HỌC.

Lão võ sư Trần Tiến - Chưởng môn Thiếu Lâm nội gia quyền.​


 

TRIẾT LÝ KỸ THUẬT VÀ TINH THẦN CỦA VOVINAM - VIỆT VÕ ĐẠO


Đại võ sư Chưởng môn Lê Sáng
Ngay khi sáng tạo, Cố Võ sư Sáng tổ môn phái Vovinam – Việt Võ đạo Nguyễn Lộc đã nghĩ tới toàn thể nhân loại, đặt tên cho môn võ của mình là VOVINAM để tất cả các dân tộc trên thế giới đều dễ đọc, dễ nhớ. VOVINAM là từ quốc tế hóa, bao gồm hai ý nghĩa: võ thuật và võ đạo Việt Nam.
Kỹ thuật Vovinam – Việt Võ đạo theo nguyên tắc 1 phát triển thành 3.
Do đó, VOVINAM là cội nguồn, còn Việt Võ Đạo là hoa kết trái của VOVINAM.
Gọi là VOVINAM hay Việt Võ Đạo đều được cả vì cùng chung một nguồn gốc. Cách gọi đúng nhất,đầy đủ nhất là VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO.
Tâm nguyện của Vị Sáng tổ môn phái VOVONAM là cố gắng hình thành một nền võ đạo chung cho nhân loại khởi xướng từ Việt Nam.

Về nghệ thuật:

VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO là kết tinh của tinh thần và kỹ thuật tự vệ, chiến đấu để giữ nước, dựng nước và mở nước của dân tộc Việt Nam từ thời lập quốc. Sáng Tổ Nguyễn Lộc là người đầu tiên có công thâu nhập kho tàng võ học phong phú của dân tộc ẩn náu ở nhiều vùng với nhiều phương pháp huấn luyện độc đáo, đặc dị; san định và bổ túc phần phân thế thất truyền rồi hệ thống hóa và hiện đại hóa thành môn VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO. Bởi vậy trong VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO có đủ mọi hình thức chiến đấu, tự vệ và tấn công được hệ thống qua phương thức một phát triển thành 3 như:
triet ly vo dao vovinam
Kỹ thuật Vovinam hướng đến sự đơn giản và khoa học.
* Các đòn phản thế tay, chân trình độ 1
* Ghép thành bài Tứ Trụ quyền
* Phối hợp lại thành bài Song Luyện hoặc Liên hoàn đối luyện
Cũng như:
* Các thế chiến lược tấn công từ 1 tới 10
* Ghép thành bài Thập Tự quyền
* Phối hợp đánh đuổi để thực tập đối kháng
Với phương thức một phát triển thành ba này được áp dụng xuyên suốt cho tất cả các đòn thế, bài bản gắn bó với nhau trên các đơn vị:
* Đòn cơ bản phản thế (tay không hoặc các loại vũ khí)
* Đòn chiến lược tấn công
* Song luyện hoặc Liên hoàn đối luyện (không té)
* Vật, khóa gỡ
* Giao đấu (đối kháng)
* Đơn luyện, (đi quyền thập bát ban…)
* Đây là một sáng tạo rất tân kỳ độc đáo do Sáng Tổ Nguyễn Lộc làm khuôn mẫu cho các đệ tử nối tiếp nhau hoàn chỉnh. Sáng Tổ cũng truyền dạy:
“VOVINAM phải luôn tiến theo trào lưu của võ học thời đại, phải lấy các môn võ đã có và hiện có trên thế giới làm đối tượng nghiên cứu, để rồi, hoặc là thái dụng tinh hoa của họ, ngõ hầu kiện toàn tinh tiến cho mình, hoặc tìm cách hóa giải khắc chế lại những tinh hoa đó. Điều cần phân biệt ở đây: thái dụng không có nghĩa là toa rập, mô phỏng. Thái dụng là thâu thái những tinh hoa rồi biến chế, hòa điệu theo một tinh thần riêng, hợp với thể chất từng loại người, rồi đem áp dụng. Cũng ví như ta thái dụng tinh hoa của màu xanh, màu đỏ để biến cải thành màu tím,chứ không còn là màu xanh màu đỏ nữa.

Về tinh thần

VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO mang truyền thống dung võ để bảo vệ đất nước chống xâm lăng, dùng võ của những người yếu muốn vươn lên tự giải quyết lấy những khó khăn trở ngại, không chịu nép mình dưới cường lực bạo tàn để được sống xứng đáng, và làm cho mọi người đều được sống xứng đáng.
Khác với mọi môn phái võ đạo chịu ảnh hưởng của tôn giáo hay chính trị, để đôi khi trở thành công cụ hay phương tiện hành giáo hay hành chính. VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO luôn giữ vững truyền thống tổng hợp võ học và lý thuyết võ đạo qua những gương phấn đấu của các danh nhân thế giới, dung hợp mọi triết thuyết, mọi tôn giáo, thích ứng đời sống tư tưởng vào đời sống hành động vào truyền thống giữ, dựng và mở nước của các thời đại lịch sử loài người.
VOVINAM mang sứ vụ truyền dạy cho người biết võ, rồi hướng dẫn họ phải làm gì lợi ích cho mình, cho người. Tinh thần đó phải được thể hiện bằng nếp sống tình cảm, cách ăn nết ở, cách đối đãi với tha nhân, sao cho mọi người đều hiểu và tin tưởng, yêu thương mình. Phải truyền thông ấn tượng tốt vào cảm quan của đối tượng tinh thần võ đạo thật sự không biên giới quốc gia, giai cấp và tôn giáo.
Đó mới đích thật là tinh thần: VOVINAM - VIỆT VÕ ĐẠO
Chưởng môn Lê Sáng
Nguồn: Thư Chưởng môn.

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

NHÂN - TRÍ - DŨNG TRONG NHO GIÁO

Tư tưởng đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở nước ta hiện nay
Tóm tắt: Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay đã hơn 2500 năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh hưởng  ở nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Bài viết đề cập đến những nội dung đạo đức chủ yếu của Nho giáo như tam cương (đạo đức xã hội gồm ba mối quan hệ cơ bản là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ), ngũ thường (gồm năm chuẩn mực đạo đức cá nhân bất di bất dịch là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đó là những tiền đề để thực hiện thuyết chính danh, làm cho xã hội được ôn định, trật tự. Trên cơ sở phân tích những nội dung đạo đức nói trên, bài viết làm rõ những ảnh hưởng tích cực cũng như hạn chế của Nho giáo đối với đạo đức con người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay đã hơn 2500 năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh hưởng  ở nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Sự ảnh hưởng này, được thể hiện trên nhiều phương diện, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức trước đây cũng như hiện nay. Bài viết đề cập một vài nét về ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo đối với con người Việt Nam hiện nay.

1. Khái quát nội dung tư tưởng đạo đức Nho giáo.

Nho giáo được ra đời ở thời Xuân Thu do Khổng Tử  (551 – 479 TCN) sáng lập. Sau khi ông mất, tư tưởng của ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thế kỷ II TCN, Nho giáo mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại trong suốt thời phong kiến và là công cụ giúp các triều vua cai trị đất nước.
Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận bàn về đạo đức.
Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng  - vợ, anh em, bạn bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là Tam cương -  ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Đức chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí, dũng); ở Mạnh Tử là “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tam cương và ngũ thường được kết hợp và gọi tắt là đạo cương - thường.
Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ pháp của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương - thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm bảo quyền thống trị của thiên tử. Mặt khác, đạo cương - thường với nội dung “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” (vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không có lòng trung, cha xử con chết, con không chết là không có hiếu) là sợi dây trói buộc con người, làm cho con người thụ động trong cả suy nghĩ và hành động. Tư tưởng này là lực cản sự phát triển của xã hội và là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội phương Đông trì trệ.
Phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo cương - thường là Nhân (đức nhân). Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù trung tâm này. Từ đức nhân mà phát ra các đức khác và các đức khác lại quy tụ về đức này. Cả cuộc đời mình, Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết để làm cho đức nhân trở thành hiện thực. Ông mong muốn các học trò rèn luyện để đạt được đức nhân và ứng dụng nó trong thực tiễn. Đức nhân được Khổng tử bàn đến với nội dung cơ bản sau:
- Nhân có nghĩa là yêu người : “Phàn Trì hỏi về người nhân, Khổng Tử nói: (đó là người biết) yêu người” (Phàn Trì vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”)(1).
- Nhân có nghĩa là trung và thứ. Bàn về chữ trung, ông giải thích:“Người nhân là người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân)(2). Về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ thi hành cho người khác” (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân)(3). Như vậy, trung thứ tức là từ lòng mình suy ra lòng người, phải giúp người. Khổng Tử khuyên rằng nên làm cho người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người những cái mình không muốn.
- Đối với bản thân mình,  người có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ: “Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi nhân)(4). Lễ là hình thức thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực của Ngũ thường.
Phạm trù đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc và cốt lõi của nhân là hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ, giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) là những tình cảm tự nhiên, vốn có thuộc về bản tính con người. Từ cách hiểu này, ông cho rằng, trong gia đình nếu người cha đứng đầu thì mở rộng ra trong nước có ông vua đứng đầu. Khổng Tử hình dung quốc gia là một gia đình lớn, ông vua là người cha của gia đình ấy. 
Nho giáo đặt vua đứng đầu trong tam cương và ngũ luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha mẹ, tận trung với vua. Một người biết yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì mới biết yêu thương người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên là gia đình, từ đó suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Coi trọng vai trò gia đình trong việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với ngày nay, bỡi lẽ, gia đình là một tế bào của xã hội, xã hội không thể ổn định, thịnh trị nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Vì vậy, người cầm quyền nếu không “tề gia” (cai quản gia đình) của mình thì cũng không thể “trị quốc” (cai trị đất nước) được.
Nhân còn gắn liền với Nghĩa (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để giúp người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi thường lợi. Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lòng dũng cảm (dũng) và có Trí (trí tuệ). Có trí mới biết cách giúp người mà không làm hại đến người, đến mình, mới biết yêu và ghét người, mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ người không ngay thẳng. Tuy nhiên, trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông không phải là những tri thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên và xã hội để từ đó chỉ đạo hành động của con người mà là những tri thức mang tính giáo điều, chỉ gói gọn trong sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Tứ thư và Ngũ kinh).
Như vậy, đối với Khổng Tử, nhân chính là đạo lý làm người, vừa thương người (ái nhân), vừa phải giúp người (cứu nhân). Ông cho rằng, khi thi hành điều nhân phái phân biệt thân sơ, trên dưới. Nếu ở Khổng Tử đức nhân mang tính phức tạp rất khó thực hiện, nó vừa là lý tưởng nhưng lại mang yếu tố không tưởng thì đến thời Hán, đức nhân lại được khoác thêm cái vỏ tôn giáo thần bí, do vậy càng không tưởng hơn.
Về phạm trù Lễ, theo Nho giáo, lễ là quy định về mặt đạo đức  trong quan hệ ứng xử giữa người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với vua, chồng vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè phải giữ được lòng tin. Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân theo. Lễ là sợi dây buộc chặt con người với chế độ phong kiến tập quyền. Khổng Tử yêu cầu, từ vua cho đến dân phải rèn luyện và thực hiện theo lễ. Đến Đổng Trọng Thư, lễ đã được đẩy lên đến cực điểm của sự khắt khe. Chỉ vì giữ lễ mà dẫn đến những hành vi ngu trung, ngu hiếu một cách mù quáng ở không ít người trong xã hội trước đây.
Tư tưởng lễ của Nho giáo có tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng lễ đã đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá phẩm hạnh con người. Sự giáo dục con người theo lễ đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn, biết quý trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ. Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở những lời giáo huấn mà đã đi vào lương tâm của con người. Từ lương tâm đã dẫn đến hành động đến mức trong các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà chết chứ không bỏ lễ: chết đói là việc nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu Hy). Nhờ tin và làm theo lễ mà các xã hội theo Nho giáo đã giữ được yên ổn trong gia đình và trật tự  ngoài xã hội trong khuôn khổ của chế độ phong kiến. Lễ trở thành điều kiện bậc nhất trong việc quản lý đất nước và gia đình. Yếu tố hợp lý này chúng ta có thể học tập.
Về mặt hạn chế, lễ là sợi dây ràng buộc con người làm cho suy nghĩ và hành động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ; lễ đã kìm hãn sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Điều này nói lên rằng, tư tưởng Nho giáo mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Khổng Tử đã từng nói: “ Ta theo lễ của nhà Chu vì lễ đó rực rỡ lắm thay” và ông luôn mong xã hội lúc đó quay về thời đại Nghiêu, Thuấn. Khách quan mà đánh giá, thì hạn chế trên của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tế lịch sử. Bởi vì, Khổng Tử sống trong thời đại xã hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không từ một thủ đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vương, để có bổng lộc chức tước. Ông hoài cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chính mặt hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn dư cho đến tận ngày nay, nó trở thành phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của không ít người ở các nước phương Đông, nơi tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Tín là đức tính thứ năm trong Ngũ thường. Tín có nghĩa là lời nói và việc làm phải thống nhất với nhau, là lòng tin của con người với nhau. Tín góp phần củng cố lòng tin giữa người với người. Trong ngũ luân thì tín là điều kiện đầu tiên trong quan hệ bè bạn. Tuy nhiên, nội hàm của đức tín không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ duy nhất này mà nó còn bao gồm cả lòng tin vô hạn vào đạo lý của bậc thánh hiền và các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Theo quan niệm của Nho giáo thì đức tín là nền tảng của trật tự xã hội.
Để thực hiện nhân và lễ, Khổng tử đã nêu ra tư tưởng chính danh (danh nghĩa là tên gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là đúng, là chấn chỉnh lại cho đúng tên gọi và danh phận). Do đó, chính danh là làm cho mọi người ai ở địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, cũng không dành vị trí của người khác, không lấn vượt và làm rối loạn. Ông cho rằng nguyên nhân hỗn loạn ở thời Xuân Thu là do thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm (không làm đúng danh) để quyền lợi vào tay chư hầu; chư hầu không làm đúng danh nên sĩ đã lấn át. Vì vậy, để xã hội ổn định thì mọi người cần làm đúng danh phận. Theo ông, “Danh không chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói không thuận thì việc chẳng nên, việc không nên thì lễ nhạc chẳng hưng vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì hình phạt chẳng trúng, hình phạt không trúng ắt dân không biết xử trí ra sao” (danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc)(5). Riêng đối với người cầm quyền vua- thiên tử được thay trời cai trị thì càng phải làm đúng danh của mình, như vậy mọi người mới noi theo. Đặc biệt, trong việc chính sự (việc nước), điều đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính danh, phải xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người để họ hành động cho đúng. Khổng tử cho rằng không ở chức vị ấy thì không được bàn việc của chức vị đó, không được hưởng quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy.
Mục đích của chính danh mà Nho giáo đề cao là sự ổn định xã hội, suy cho cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì sự phân biệt đẳng cấp. Chính danh không những chỉ là nội dung tư tưởng chính trị của Nho giáo, mà còn mang ý nghĩa đạo đức, là một yêu cầu về mặt đạo đức của con người. Chúng ta biết rằng, một trong những phạm trù đạo đức đó là lương tâm, trách nhiệm. Nếu xét theo nghĩa này thì một người làm tròn nghĩa vụ và bổn phận của mình tức là người đó có đạo đức.
Ý nghĩa tích cực của tư tưởng chính danh là làm cho con người ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Con người tồn tại trong vô vàn các quan hệ xã hội đan xen, ở mỗi mối quan hệ đó con người có nghĩa vụ nhất định phải thực hiện. Điều này là cần thiết ở mọi chế độ xã hội, ở mọi thời đại. Tư tưởng chính danh yêu cầu con người thực hiện một cách đúng mức nghĩa vụ của bản thân trước cộng đồng và  xã hội trong khuôn khổ danh phận, góp phần vào duy trì bình ổn xã hội. Tư tưởng này còn kìm hãm tự do của nhân cách tới mức không chấp nhận bất kì sáng kiến nào của con người, làm cho con người luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng theo chủ trương “thuật nhi bất tác” (chỉ làm theo mà không sáng tác gì thêm). Tư tưởng chính danh đã quá đề cao danh phận, làm cho con người luôn có tư tưởng hám danh, chạy theo danh, theo chức đến mức nhiều người vì hám danh quên phận mà quên cả luân thường đạo lý.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau, nhấn mạnh đức này hay đức khác của con người nhưng nói chung, các nhà nho đều cho rằng con người cần phải có những phẩm chất đạo đức cơ bản: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

2. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo ở nước ta  hiện nay.

Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”.
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ thể là:
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi hỏi của công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của không ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong kiến phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là gia trưởng, đứng đầu dòng họ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia đình lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trưởng”.
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục tùng bề trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ xã hội, ở tổ chức nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha, người chồng :”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng nhân dân sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất cần những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên nhiều người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú cháu”, “anh em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề của xã hội thông qua lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu khách quan, không công bằng. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa hành mà không được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại cho việc đấu tranh vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy theo chức quyền. Trong xã hội phong kiến, địa vị luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi càng lớn. Hơn nữa, khi có chức, không những bản thân được vinh hoa phú quý mà “một người làm quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách để có danh, để thăng quan, tiến chức đã trở thành lẽ sống của một số người. Thạm chí việc học tập theo họ cũng là “học để làm quan”.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng nhắc đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. Những tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài.
NGUYỄN THỊ THANH MAI        

HỌC VÕ ĐỂ LÀM GÌ?

HỌC VÕ ĐỂ: TU THÂN.


HỌC VÕ ĐỂ: TU TÂM.


TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO

Đạo đức với võ thuật

Võ Đức là linh hồn của võ thuật. Tôn cao võ đức là truyền thống tốt đẹp mấy ngàn năm nay của giới võ thuật. Thời cổ đại "trí, nhân, dũng" gọi là ba đức, tức là "người trí không ngờ vực, người nhân không lo phiền, người dũng không sợ hãi". Võ đức cũng cần trí, nhân, dũng vậy. Mạnh Tử đề xướng "đại dũng", phản đối "tiểu dũng". Ông chủ trương võ dũng phải dùng vào việc lớn cho nước cho dân mà không cần loại dũng chỉ biết hiếu dũng đấu đá, làm theo tính khí "cái dũng của kẻ thất phu". Đủ thấy từ thời cổ đại đã nói về võ đức rồi.
Các phái, các nhà võ thuật đều đề xướng người tập võ phải lấy việc tu dưỡng thân, tâm làm tôn chỉ, lấy tự vệ làm đức tin; phản đối cậy dũng đấu đá, cậy mạnh hiếp yếu; tuân giữ đạo đức công cộng của xã hội, tôn sư trọng đạo, phò nguy cứu khốn, "lấy đức dầy chở vật". Đối với võ đức đều có yêu cầu cực kỳ nghiêm ngặt. Ví như nội gia quyền Võ Đang yêu cầu người tập võ phải "lập tâm vì trời đất, lập mệnh vì nhân dân, cấm gây chuyện cấm bạo hành". Đời Minh, nội gia quyền có năm loại không truyền: kẻ tâm hiểm, kẻ hay đấu đá, kẻ nát rượu, kẻ hời hợt lộ liễu, kẻ xương mềm chất ngu độn.
Bốn loại kẻ kể trên là có liên quan đến võ đức, những kẻ như vậy thì khó có hy vọng có được võ đức, chẳng nên truyền dạy làm gì. Thời Minh, trong "Thiếu Lâm thập điều giới ước" (10 điều ngăn cấm của Thiếu Lâm) có ghi "truyền dạy học trò cần chọn lọc thận trọng, nếu xác nhận là kẻ sĩ thật thà giản dị, hồn hậu, trung nghĩa thì có thể đem kỹ thuật truyền dạy cho", "người tập luyện thuật này lấy khoẻ thể xác tâm hồn làm tôn chỉ trọng yếu, quen làm việc sớm tối, không được tuỳ ý ngưng nghỉ", "quen có lòng từ bi sâu sắc của cửa Phật, nhàn nhã quen với kỹ thuật, chỉ được sẵn sàng tự vệ, cấm tuyệt bừa bãi theo huyết khí riêng có hành động hiếu dũng ham đấu đá. Kẻ phạm lỗi làm ngược lại thanh quy cùng tội". "Thường ngày đối đãi với sư trưởng (chỉ thầy và người trên như sư bá, sư thúc, sư huynh, v.v..) phải biết kính cẩn làm việc, không được có hành vi chống trả ngạo mạn", "cứu nguy phò khốn, nhẫn nhục mà giúp đời, phải giữ là người đã quy theo cửa Phật, tự mình luôn lấy từ bi làm chủ, không được có hành vi cậy khoẻ hiếp yếu", "nữ sắc nam phong(tính), phạm phải tất trời trách mà cửa Phật ta cũng khó dung tha. Phàm các đệ tử của Thiền Tông ta phải theo điều răn cấm sáng này chớ đừng chú ý...".
Như trên đã nói võ đức bao giờ cũng đứng hàng đầu. "Đức còn trước nghệ", đúng y như khuôn vàng thước ngọc ở các nghề nghiệp khác.

CHỮ "ĐỨC" ĐỐI VỚI "CON NHÀ VÕ"

Đức trọng nhân trường thọ - Tâm khoan phúc tự lai        

Võ cổ truyền Việt Nam có một cụm từ rất đặc biệt, đó là cụm từ "Con nhà võ". Cụm từ này được sử dụng, không phải để nói đến những người con, cháu trong một dòng võ mà là bao gồm tất cả những người đã chọn con đường võ nghiệp để đi theo suốt đời.
Khi nói đến con nhà võ, người ta nghĩ ngay đến những người nghĩa khí, có lòng dạ ngay thẳng, "ăn to nói lớn", giữ chữ "tín", và đề cao lòng tự trọng.
Người nghĩa khí là người hào hiệp, người sẵn sàng chấp nhận hy sinh cho việc nghĩa.
Việc nghĩa ở phạm vi hẹp là việc ra tay cứu giúp người khác đang gặp khó khăn, hoạn nạn, đang sa cơ thất thế, việc ra tay đó được gọi là "nghĩa cử". Khi người nghĩa khí đã ra tay nghĩa cử thì họ không sợ gian nguy, chỉ nghĩ đến hy sinh cho người khác.
Việc nghĩa ở phạm vị rộng là công việc đại sự, lớn lao, mang lợi ích đến cho nhiều người, việc đại sự đó được gọi là "đại nghĩa". Khi người nghĩa khí đã tham gia đại nghĩa thì họ sẵn sàng dấn thân, gánh vác công việc nặng nhọc, tự nguyện chấp nhận hy sinh, thiệt thòi về phần mình.
Đối với con nhà võ, nếu làm thầy thì việc đại nghĩa là tận tụy dạy dỗ cho học trò nên người hữu dụng mà không ngại hao tâm tổn trí, là bảo tồn, lưu truyền, phát triển môn võ cổ truyền cuả dân tộc cho võ lâm chứ không chỉ cho riêng mình, là nâng cao uy danh của môn võ cổ truyền trở thành niềm tự hào của con dân đất Việt mà không kể công lao.
Người nghĩa khí cũng là người "trọng nghĩa khinh tài", tức là xem trọng việc nghĩa, xem nhẹ tiền bạc. Người có chức vụ càng cao, có trọng trách càng lớn thì nghĩa khí càng phải đặt nặng. Đối với con nhà võ, không vì thế lực đồng tiền mà hạ mình làm việc thấp hèn, làm trái lại mục đích, ý nghĩa, lý tưởng của công việc đại nghĩa mà võ lâm đã ủy thác cho mình, không vì háo danh, hám lợi mà làm phương hại đến uy danh của môn võ cổ truyền dân tộc.
Người có lòng dạ ngay thẳng thì làm việc gì cũng đường đường chính chính, ân oán rõ ràng. "Ruột thẳng như ruột ngựa" là câu nói được nhân gian gắn cho con nhà võ, bởi vì con nhà võ không làm điều mờ ám, khuất tất, mang ơn thì phải ra sức đền đáp, gây oán thì phải tìm cách trả nợ cho người. Con nhà võ không xu nịnh người trước mặt, không ám hại người sau lưng.
Người "ăn to nói lớn" là người bộc bạch thẳng thắng, thấy chi nói nấy, thấy sai thì cải lại. Con nhà võ được thừa hưởng đức tính của người thầy qua nề nếp "dạy trực tiếp, dạy từng người" (cầm tay nắn thế, dĩ giáo khai tâm, dụng ngôn khải thị) nên có được tâm tính khoáng đạt, nói năng lưu loát.
Con nhà võ nói năng lưu loát nhưng không khoác loác, khoe khoang, không ma mị để lừa dối người khác và cũng không chịu để cho người khác tâng bốc mình bằng cách "thêm muối, dặm đường", chuyện không dựng lên nói có.
Con nhà võ không để cho báo chí viết về mình là "đệ nhất thiên hạ", là "người vàng, người ngọc", là "người duy nhất còn nắm giữ thập bát ban võ nghệ", là "võ sĩ thóp bụng giữ chặc đầu đối phương rồi phình ra cho đối phương ngã ngửa trên võ đài phải chở vào bệnh viện cấp cứu", ..v.v.. và ...v.v.
Bởi vậy cổ nhân mới khen tặng người có năng lực mà khiêm tốn là "hữu xạ tự nhiên hương", người có thực tài mà ẩn mình là "ngọc trong đá", và chê người dùng xảo ngôn để thổi phồng mình là  "tự vẻ bùa mà đeo".
Người giữ chữ "tín" là người chỉ hứa khi chắc chắn làm được điều đã hứa và đã hứa rồi thì phải nổ lực thực hiện cho được điều mình hứa.
Ngày xưa, người ta rất xem trọng lời hứa. Năm 545 trước công nguyên, Quý Trát là hoàng tử nước Ngô, lĩnh mệnh đi sứ các nước trung nguyên để mở rộng bang giao. Trước khi lên trung nguyên, Quý Trát qua nước Từ. Vua nước Từ thấy thanh kiếm của Quý Trát đeo bên mình đẹp quá, thích lắm nên nhìn mãi. Quý Trát biết ý vua nước Từ thích thanh kiếm, trong lòng muốn tặng nhưng vì trên đường đang đi sứ chưa thể tặng được. Khi từ nước Tấn trở về, Quý Trát qua lại nước Từ để tặng kiếm nhưng vua Từ đã qua đời. Quý Trát bèn ra mộ thắp hương, khấn vái rồi cởi thanh kiếm treo lên bia mộ, quay về. Qua câu chuyện ấy, ta thấy Quý Trát chưa từng mở lời hứa nhưng khi trong lòng đã từng nghĩ đến việc tặng kiếm cho vua nước Từ thì ông tự xem là mình đã hứa rồi, và nhất quyết phải giữ chữ tín với người đã khuất .
Đối với con nhà võ thì việc giữ chữ tín hết sức quan trọng. Nó là thước đo phẩm chất của từng con người. Con nhà võ không thể nói "huyên thuyên chi địa" đầy rẫy những lời hứa hẹn. Thực tế thì những lời huyên thuyên, hứa hẹn  ấy chỉ để đề cao cá nhân, để chứng tỏ là mình đang nắm nhiều quyền lực và để phỉnh dụ người khác ủng hộ những việc đang làm của mình. Những lời huyên thuyên ấy không bao giờ là sự thật.
Người có lòng tự trọng là người không để bị người khác xem thường, thậm chí là khinh khi, sỉ nhục. Muốn giữ được lòng tự trọng  thì hơn ai hết, con nhà võ phải trung thực, thật thà, làm việc gì cũng phải quang minh, chính đại, không làm điều trái ngược đạo lý, giàu không thay lòng, nghèo không đổi dạ, đứng trước quyền uy không khuất phục, gặp cảnh ngộ nào cũng phải giữ phong thái "chân đạp đất, đầu đội trời".
Con nhà võ không tu dưỡng, rèn luyện để trở thành thần thánh, cũng không để thành bậc đại trượng phu. Họ chỉ rèn luyện cái "Đức" cả đời để xứng đáng với mỹ từ "Con nhà võ" mà nhân gian tôn tặng ./.
                       Tác giả: Võ sư Trần Xuân Mẫn - Chủ tịch Hội Võ thuật cổ truyền tỉnh Quảng Nam        

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

TÁC PHONG CỦA MỘT HUẤN LUYỆN VIÊN VIỆT VÕ ĐẠO

(Võ sư Lê Hải Bình - đang thị phạm kỹ thuật cho các võ sinh VoViNam)

Hiện hữu trong đại gia đình Việt Võ Đạo, đó là một vinh dự cho mỗi người chúng ta. Là một võ sư hay huấn luyện viên của môn phái, mỗi chúng ta càng cảm thấy tự hào, vì mình chính là những người đang ươm những mầm non cho tương lai môn phái.

Từ khi được bước chân vào mái trường Vovinam Việt Võ Đạo, chúng ta được các bậc Thầy đi trước hướng dẫn không chỉ võ thuật mà cả tinh thần võ đạo. Đó là đạo sống của mỗi Việt Võ Đạo Sinh. Đó là cách đối nhân xử thế phù hợp với đạo làm người, nêu cao danh dự của cá nhân, của môn phái và Tổ quốc mến yêu.
Để thể hiện được tinh thần võ đạo của môn sinh, chúng ta cần phải cho mọi người thấy được một tác phong tốt, không những chỉ ở võ đường hay sân tập, mà còn ở khắp mọi nơi. Là một võ sư, huấn luyện viên chúng ta cần đặt yêu cầu khắc khe hơn nữa. 
Trong gia đình phải là một con người ngoan hiên, hiếu thảo, biết kính trọng giúp đỡ người trên, thương yêu đùm bọc người dưới. Là một người cha ( hay một người mẹ) biết lo lắng vun sới cho hạnh phúc gia đình, biết chăm lo dạy dỗ con cái nên người và nhận thấy được trách nhiệm của mình trong cái gia đình ấy.
Ngoài xã hội, đối với bạn ta cần phải chân tình. Bạn bè là một vốn quý, là những người có thể thấu hiểu và giúp đỡ ta rất nhiều ở một phương diện nào đó trong cuộc đời. Sống mà không có bạn, chẳng khác gì ta đang lạc lõng giữa biển đời mênh mông.
Trong công việc, mỗi người mỗi khác do hoàn cảnh hay sự chọn lựa. Nhưng dù ở cương vị nào, là cấp lãnh đạo hay người nhân viên bình thường, là một doanh nghiệp lớn hay một người buôn bán lẻ, là một cấp chỉ huy hay.


 Võ sư Phạm Văn Ân

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014

10 ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA MÔN PHÁI


I. Mười điều tâm niệm.

  1. Việt Võ Ðạo sinh (VVÐS) nguyện đạt tới cao độ của nghệ thuật để phục vụ dân tộc và nhân loại .
  2. VVÐS - Nguyện trung kiên phát huy môn phái, xây dựng thế hệ thanh niên Việt Võ Ðạo 
  3. VVÐS - Ðồng tâm nhất trí , tôn kính người trên, thương mến đồng đạo.
  4. VVÐS - Tuyệt đối tôn trọng kỷ luật, nêu cao danh dự võ sĩ.
  5. VVÐS - Tôn trọng các võ phái khác, chỉ dùng võ để tự vệ và bênh vực lẽ phải.
  6. VVÐS - Chuyên cần học tập, rèn luyện tinh thần, trau dồi đạo hạnh.
  7. VVÐS - Sống trong sạch, giản dị, trung thực và cao thượng.
  8. VVÐS - Kiện toàn một ý chí đanh thép, thắng phục cường quyền, bạo lực. 
  9. VVÐS - Sáng suốt nhận định, bền gan tranh đấu, tháo vát hành động.
  10. VVÐS - Tự tin, tự thắng, khiêm cung, độ lượng, luôn luôn kiểm điểm để tiến bộ.

II. Ý nghĩa đại cương 10 điều tâm niệm.

  Ðiều 1. Nói về hoài bão và mục đích học võ.
  Ðiều 2. Nói về Nghĩa vụ đối với môn phái và dân tộc.
  Ðiều 3. Nói về Tình đoàn kết trong môn phái.
  Ðiều 4. Nói về võ kỹ và danh dự võ sĩ 
  Ðiều 5. Nói về ý thức dụng võ
  Ðiều 6. Nói về ý hướng học tập và đời sống tinh thần
  Ðiều 7. Nói về Tâm nguyện sống.
  Ðiều 8. Nói về Rèn luyện ý chí.
  Ðiều 9. Nói về Nếp suy cảm, nghị lực và tính thực tế.
  Ðiều 10. Nói về Ðức sống và tinh thần cầu tiến.

III. Ý Nghĩa 10 Ðiều Tâm Niệm Của Việt Võ Ðạo Sinh.

  Môn phái võ đạo, võ thuật luôn tồn tại, phải có một ý thức hệ vững chắc, một tổ chức đầy đủ, một chương trình huấn luyện hữu hiệu.
  Có một ý thức hệ vững chắc, môn phái võ đạo, võ thuật ấy mới có thể hướng dẫn tinh thần các võ sinh, để có một ý thức dụng võ đứng đắn, không bao giờ làm tổn thương tới danh dự môn phái và trật tự xã hội. 
  Với một tổ chức đầy đủ, kỷ luật võ đường mới có thể bảo đảm được nếp sống trong và ngoài võ đường, và do đó mới có thể hướng dẫn các võ sinh về tinh thần thượng võ.
  Có một chương trình huấn luyện hữu hiệu, mới có thể đào luyện võ sinh tinh tiến về căn bản võ thuật để làm sáng danh môn phái trong những trường hợp phải dụng võ. 
  Tuy nhiên, cả ba phần vụ võ trên là phần vụ võ đào tạo. Phần vụ đào tạo đó hữu hiệu hay không, trước hết phải do tâm nguyện của võ sinh, tức võ sinh phải có kỷ luật tự giác hay không. Sau đó, là phần bổ túc kỷ luật tập thể, nhằm mục đích chỉ đào tạo những hạt giống tốt. 
Mười điều tâm niệm của Việt Võ Ðạo Sinh chính là phản ánh chủ trương trên của môn phái: một mặt minh định ý hướng đào tạo của môn phái, một mặt qui định kỷ luật tự giác của các môn sinh. 

  Điều 1. Hoài bão và mục Ðích Học Võ 

  Người học võ trước hết phải có hoài bão lớn lao, là mong đạt tới mức độ siêu việt, chớ không phải chỉ cốt học qua loa một vài đòn thế để tự vệ là đủ. Ở đây hoài bão của Việt Võ Ðạo sinh là "Nguyện đạt tới cao độ của nghệ thuật". 
  Nghề võ cũng như nghề may, nghề nấu ăn, nghề báo, nghề văn, ai ai cũng đều có thể theo được, nhưng chỉ những người bền tâm, bền chí mới hy vọng đạt tới một mức khả quan để trở thành nghệ thuật. Nghề nào cũng có thể đạt tới mức tinh thục. Những khi đã vào được nghệ thuật võ học rồi, tâm nguyện của người học võ chưa phải như thế là đã giải quyết xong, mà còn học nữa, trau giồi nữa, trau giồi mãi mãi, tới cao độ của nghệ thuật. Tất nhiên mức độ của nghệ thuật võ không cùng, nhưng nếu có tâm, chí, người học võ có thể đạt được tới mức cao siêu nào đó. Mức độ cao siêu đó là cao độ. Bởi vì nghệ thuật võ không cùng, nên không bao giờ có cao độ tuyệt đối. Cao độ của nghệ thuật là một cao độ tương đối, mà người học võ nếu thành tâm bền chí, có thể đạt tới được. 
  Sau đó, người học võ phải tìm hiểu mục đích học võ của mình. Học võ mà không có đích chẳng khác gì người đi đường không biết rõ mình đi đâu, người lính ra trận không biết rõ mình ra trận để làm gì. 
Chỉ có những người chưa học võ mới có quan niệm sai lầm rằng: học võ "để đánh người", hoặc học võ "để đi đánh lộn". Sự thật trái lại. Thực tế cho chúng ta thấy rằng: càng những người không biết võ, hoặc biết võ vẽ một vài miếng mới hiếu chiến, tức "thích đánh lộn". 
  Người giỏi võ không thế, chẳnh những trau giồi về võ thuật, mà còn trau giồi cả về tinh thần thượng võ, ý thức võ đạo. Những người có tinh thần thượng võ và ý thức võ đạo luôn luôn bình tĩnh giải quyết sự việc. Họ không có mặc cảm tự ti, là bị người coi thường. Họ rất ghét sự gây gổ cá nhân, và thường tỏ ra là người có sức chịu đựng giỏi hơn người khác. Lý do thật giản dị: Anh không dùng võ để tỏ ra là mình mạnh để khỏi có mặc cảm sợ người, vì anh hiểu rằng chỉ cần một vài thế võ là hạ xong địch thủ. 
  Học võ để hạ địch thủ trong một lúc tức giận nào đó, không hợp với tinh thần Việt Võ Ðạo. Việt Võ Ðạo Sinh học võ với một mục đích cao cả hơn: Học võ để có thể giúp ích đồng bào nhiều hơn, để hòa giải những mâu thuẫn giữa con người với con người, giữa quốc gia với quốc gia. Anh học võ với ý thức phục vụ, chứ không phải với ý thức đàn áp. Anh học võ để phục vụ dân tộc của anh và nhân loại tất cả chúng ta, của tất cả mọi người. 
Tóm lại, cả 2 câu trên, khi bước vào ngưỡng của Việt Võ Ðạo, đều được đặt ra nghiêm chỉnh và giải đáp phân minh. Ðúc kết lại thành điều tâm niệm thứ nhất: 
  Việt Võ Ðạo Sinh Nguyện Ðạt Tới Cao Ðộ Của Nghệ Thuật Ðể Phục Vụ Dân Tộc Và Nhân Loại. 

  Điều 2. Nghĩa Vụ Của Việt Võ Ðạo Sinh Ðối Với Môn Phái Và Dân Tộc. 

  Ðã có hoài bão và hiểu rõ mục đích học võ rồi, người học võ còn phải tìm hiểu nghĩa vụ đối với môn phái ra sao? Ðối với dân tộc ra sao? 
Ở đây, nghĩa vụ của người võ sinh đối với môn phái là: "Nguyện trung kiên phát huy môn phái". Chúng ta cần phải đọc kỹ lại đoạn đầu của điều tâm niệm thứ 2 là: "Trung kiên phát huy môn phái", chớ không phải trung kiên riêng cho cá nhân nào. Tuy nhiên, nếu cá nhân đó đương chấp chưởng công cuộc phát huy môn phái, thì một võ sinh trung kiên có nghĩa vụ phải tiếp tay, góp sức. Và như vậy, là chúng ta đã trung kiên đúng với tinh thần mà chúng ta tự nguyện. 
  Muốn phát triển môn phái chúng ta phải thực hiện những việc gì? Có hai cách phát huy môn phái: 
Dày công khổ luyện để trở thành huấn luyện viên, võ sư trực tiếp truyền thụ võ thuật và tinh thần võ đạo cho quần chúng. 
 Thực tập tinh thần võ đạo trong đời sống. Nghĩa là ở trong gia đình, chúng ta phải là những người cha từ, con hiếu, anh hiền, em thảo, với bạn bè phải giữ tín nghĩa, với hàng xóm phải luôn luôn tìm dịp giao hòa, giúp đõ. Có thế chúng ta mới được mọi người thương mến, cảm phục. Và đó chính là chúng ta đã tích cực phát huy môn phái. 
Còn nghĩa vụ đối với dân tộc là: "Xây dựng thế hệ thanh niên Việt Võ Ðạo". Tại sao cần phải xây dựng thế hệ thanh niên Việt Võ Ðạo? Vì có được thế hệ thanh niên Việt Võ Ðạo là có được bức trường thành kiên cố để bảo vệ đất nước, xây dựng tương lai. Chính tinh thần võ đạo đã khơi mở tấm lòng thiết tha yêu nước của người công dân và làm cho dân tộc trường tồn, vững chắc. 
 Từ hàng ngàn năm nay, nước Nhật đã vượt biết bao khó khăn, thử thách, quật cường được sau bao nhiêu hiểm họa vong quốc, vì họ đã sẵn có một căn bản những thế hệ thanh niên võ đạo. 
Việt Nam chúng ta, sau bao hiểm họa mất nước, còn tồn tại được tới ngày nay, chính vì tiền nhân chúng ta vẫn tiềm tàng một tinh thần võ đạo phôi thai. 
 Hoặc nói cách khác: Ông cha chúng ta chưa hình thành xong một ý thức hệ võ đạo nhưng vì luôn luôn hàm dưỡng một tinh thần thượng võ bất khuất, tức một tinh thần võ đạo phôi thai, nên sau bao lần phải đương đầu với nạn ngoại xâm, vẫn chiến thắng những trận cuối cùng để bảo toàn lãnh thổ. Trong những lần lâm nguy biến như vậy (Trần, Lê, Tiền Nguyễn), bao giờ việc đảm đương sứ vụ cứu nước cũng do thế hệ thanh niên tiền võ đạo đứng ra đảm nhiệm.
 Vì vậy, tiếp tục truyền thống ấy, việc làm tiên quyết của môn phái chúng ta: Xây dựng thế hệ thanh niên Việt Võ Ðạo. 
 Tóm lại, cả 2 câu hỏi trên, được đúc kết lại thành điều tâm niệm thứ 2: 
Việt Võ Ðạo Sinh Nguyện Trung Kiên Phát Huy Môn Phái, Xây Dựng Thế Hệ Thanh Niên Việt Võ Ðạo. 

  Điều 3. Tình Ðoàn Kết Trong Môn Phái. 

  Sau khi biết rõ nghĩa vụ của mình đối với môn phái và đối với dân tộc, Việt Võ Ðạo Sinh đề cập tới tình đoàn kết trong môn phái. Trong bất cứ đoàn thể nào tình đoàn kết cũng được nói tới trước nhất. Thiếu sự bất đồng tâm nhất chí, thì dẫu là một đoàn thể gồm toàn những vị bác học uyên thâm cũng chả thành công một việc gì cả. Trái lại, một khi đã có tình khối đoàn kết, có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, thì dầu với một khối người chất phác, tầm thường, hiểu biết nông cạn, vẫn có thể bạt núi lấp sông. 
  Vì lẽ trên, Việt Võ Ðạo Sinh phải luôn luôn giữ vững kỷ cương và không bao giờ chấp nhận một mầm mống chia rẽ nhỏ nhặt nào. Tình đoàn kết trong môn phái phải được khơi mở sâu xa, thắm thiết và liên tục phát huy trong đời sống tập thể. 
  Việt Võ Ðạo Sinh phải dẹp bỏ mọi mặc cảm, thành kiến, quyết tiêu trừ mọi tự ái sai lầm, mọi ý nghĩa cá nhân riêng lẻ. Có thế sự thông cảm giữa những người trong môn phái mới mỗi ngày được vun tươi thêm mà nẩy nở. Tuyệt đối không có thù hằn trong nội bộ, nếu có những thắc mắc phải giải quyết ngay trong một lúc. Hơn bất cứ đoàn thể nào hết, môn phái Vovinam - Việt Võ Ðạo không bao giờ chấp nhận hay tha thứ một mầm mống mâu thuẫn nào trong nội bộ. 
  Một quốc gia không thể trưởng thành trong sự chia rẽ. Một võ phái không thể nào phát huy được, nếu luôn luôn có những mâu thuẫn trong nội bộ. 
Do đó, người dưới phải chân thành, thuần hậu, tôn kính người trên và mọi người (đồng đạo) đối với nhau phải thật tình thương mến. (Danh từ đồng đạo chỉ chung tất cả mọi người trong môn phái cùng theo đuổi một mục đích võ thuật, võ đạo). 
  Sự thương mến đồng đạo ở đây, với môn phái Vovinam, là một sự thương mến tích cực. Có thương mến tích cực mới dẹp bỏ được thành kiến về giai cấp, về trình độ học vấn, về tài năng đặt biệt để đi tới một niềm thông cảm sâu xa và luôn luôn nâng đỡ, dìu dắt nhau trên con đường phục dân tộc và nhân loại. Tóm lại, điều tâm niệm thứ 3 của Việt Võ Ðạo Sinh là: 
  Việt Võ Ðạo Sinh Ðồng Tâm Nhất Chí, Tôn Kính Người Trên, Thương Mến Ðồng Ðạo. 

  Điều 4. Võ Kỷ Và Danh Dự Võ Sĩ:

       Sau tình đoàn kết trong môn phái, Việt Võ Ðạo Sinh vào phần võ kỷ và danh dự võ sĩ. Kỷ luật của một môn phái võ đạo khác với kỷ luật của quân đội và kỷ luật của các đảng phái cách mạng hay chính trị. Kỷ luật võ đạo không tạo lập trên căn bản sắt máu hay tinh thần toàn chuyên (Otolitoriste). 
  Kỷ luật của một môn phái võ đạo có những nguyên tắc căn bản của nhà võ: Ðượm tình thẳng thắn và tính như nhất. 
Kỷ luật ấy, một phần dựa vào những nguyên tắc thông cảm tự giác, một phần xây trên nguyên tắc sinh tồn của môn phái, nên mặc dầu không có tính cách khắt khe quá đáng, nhưng mang tính chất chọn lọc, đào thải hợp lý. Vì vậy, hình phạt tối đa của môn phái chỉ là thu hồi đai đẳng, trục xuất ra khỏi môn phái, và tuyên báo quyết định đó trước công luận. Nhưng từ hơn 50 năm nay, môn phái Vovinam chưa bao giờ phải có quyết định quyết liệt, chỉ vì môn phái chúng ta đã từ người trên thuần cẩn làm gương cho người dưới và đặt vấn đề chọn lọc kỹ lưỡng ngay từ lúc đầu. 
  Vì vậy, võ sinh gương mẫu bao giờ cũng là người tôn trọng kỷ luật tới mức tuyệt đối. Môn phái võ đạo, chỉ có thể tồn tại và phát huy được, do những khối óc và những bàn tay xây dựng, chứ không do những thái độ anh hùng cá nhân, vô kỷ luật. 
  Nói đến "cá nhân" chúng ta liên tưởng ngay tới những nhóm người rời rạc, nhiều mâu thuẫn nội bộ, nhiều tự ái, nhiều thành tín, mặc cảm. Ðó là "cá nhân" hiểu theo nghĩa sâu. 
  Theo một nghĩa tốt đẹp hơn, chúng ta lại hiểu cá nhân như một bậc anh hùng khó tính: có tài, nhưng thích làm việc tùy hứng, không bao giờ ở lâu một nơi, làm lâu một việc. 
  Cả 2 thứ cá nhân của "cá nhân chủ nghĩa" và "anh hùng cá nhân chủ nghĩa" đều không thích hợp với Việt Võ Ðạo. Bởi mang nặng tính chất nghệ thuật và kỹ thuật, nên nghề võ chỉ thích hợp với những người có kỷ luật tự giác tinh thần. 
  Khi học võ mà chú trọng quá nhiều tới danh dự cá nhân, sẽ không thể nào hòa mình vào tập thể. Cá nhân phải để ra ngoài: Chỉ có con người học võ để trở thành võ sĩ, chớ không có cá nhân học võ để trở thành võ sĩ. 
  Do đó, khi học võ, Việt Võ Ðạo Sinh chỉ giữ lại phần "con người" của mình, để trở thành "người võ sĩ" của Việt Võ Ðạo, và không lúc nào quên nêu cao danh dự của người võ sĩ, tức danh dự chung của tập thể, một thứ danh dự bênh yếu chống mạnh, một thứ danh dự vượt lên khỏi những tự ái cá nhân để hoà mình vào nền võ đạo. 
  Ðúc kết lại, điều tâm niệm thứ 4 là: 
        Việt Võ Ðạo Sinh Tuyệt Ðối Tôn Trọng Kỷ Luật Và Nêu Cao Danh Dự Võ Sĩ. 

  Điều 5. Ý Thức Dụng Võ 

  Sau khi hòa mình vào võ kỷ, vào tập thể, Việt Võ Ðạo Sinh phải có ý thức dụng võ cho đúng đắn để nói lên được tinh thần cao đẹp của môn phái. Việt Võ Ðạo Sinh học võ không phải với mục đích ganh hơn thua, với người hoặc kiêu căng, phách lối, khinh thị người. Trái lại, khi trình độ võ thuật càng cao càng phải thuần cẩn, lễ độ, giao hòa với các võ phái khác, để cùng phát triển, phục vụ cho nền võ đạo dân tộc và nhân loại. Nên nhớ: cái hay, cái giỏi của ta tự nó đã nổi bật không cần phải khoe khoang, gièm pha, khiêu khích để được dịp thử tài với các võ phái khác, vì đó chỉ là thái độ của kẻ cuồng bạo, xuẩn động, võ phu, chứ không phải là phong thái hào hùng, cao nhã của người võ sĩ chân chính, của Việt Võ Ðạo Sinh. 
  Một khi đã ra tay cảnh cáo, trừng phạt một phần tử hư hỏng của một võ phái nào đó, Việt Võ Ðạo Sinh chỉ coi đấy là một việc làm bất đắc dĩ khuyến thiệt một vài cá nhân hư hỏng, chớ không bao giờ có ý định xúc phạm tới toàn thể của họ để gây ra thù chuốc nghịch, tức không vơ đũa cả nắm. 
  Ngoài ra môn phái Vovinam không chủ trương cho võ sinh thượng đài. Vì thượng đài gây cho võ sinh một tinh thần hiếu chiến hiếu thắng, coi chiến và thắng là mục đích tối hậu của sự học võ. Thượng đài cũng có một số luật lệ đã qui định, như sức vóc, cấm một số đòn chân... để tiết chế đi phần nguy hiểm cho các võ sĩ, nhưng vẫn không trù liệu trước được hết mọi trường hợp nguy hiểm dự liệu. Nhưng quan trọng hơn cả là tinh thần người võ sĩ thượng đài: thần kinh hệ suy nhược, óc lỏng, trí nhớ kém, sự thông minh giảm sút. Theo bác sĩ Halstead, một chuyên viên khám nghiệm các võ sĩ thượng đài, thì 60% võ sĩ thượng đài phải giảm sút năng lực, 50% lâm tình trạng ngu độn hoàn toàn. Chính Gene Tunney, cựu vô địch quyền Anh hạng nặng thế giới cũng ngỏ lời khuyên các võ sĩ trẻ tuổi nên bỏ cuộc sớm, mà theo anh, lý do chính là "những cú đấm, tưởng không mạnh, sẽ lần hồi tiêu diệt trí khôn của con người." 
  Bởi vậy, người võ sĩ luôn luôn chiến và thắng trên võ đài, tâm trí thường mê mụ đi (vì óc lỏng), thường trở thành người khó tính, hay nổi giận, ưa phản ứng bằng sức mạnh nhưng sử dụng sức mạnh lại rất chậm chạp, thường sơ hở không giữ kín những trọng huyệt, nên khó có thể chiến và thắng được ở ngoài đời. Môn phái Vovinam, mặc dầu tôn trọng các võ phái khác, cũng không tán thành những trường hợp trên, vì không muốn các võ sinh có ý thức học võ chỉ cốt nhằm mục đích thượng đài. 
  Tóm lại, để cụ thể hóa việc học võ, theo tinh thần võ đạo, Việt Võ Ðạo Sinh chỉ được dụng võ trong 2 trường hợp thông thường: Trong đời tư: dùng để tự vệ (khi danh dự, quyền sống cá nhân bị xúc phạm, đe dọa) 
  Trong đời công: dùng võ để bênh vực lẽ phải (trọng công bằng, chính trực, chống bất công bạo ngược). 
  Tóm lại, tất cả mọi giải đáp trên được đúc kết thành điều tâm niệm thứ 5: 
       Việt Võ Ðạo Sinh Tôn Trọng Các Võ Phái Khác, Chỉ Dùng Võ Ðể Tự Vệ Và Bênh Vực Lẽ Phải. 

  Điều 6. Ý hướng học tập và đời sống tinh thần. 

  Khi đã có ý thức dụng võ đứng đắn, Việt Võ Ðạo Sinh bắt đầu đi vào chủ trương "Cách Mạng Tâm Thân". Muốn cách mạng tâm thân, phải rèn luyện tâm thân. Muốn rèn luyện tâm thân, phải có ý hướng học tập và trau giồi đời sống tinh thần. Có thế chúng ta mới có hy vọng vào được bên trong tòa nhà võ đạo, chớ không chỉ quanh quẩn bên ngoài ngưỡng cửa võ thuật. 
  Ý hướng học tập của Việt Võ Ðạo Sinh có thể thâu tóm trong 2 chữ: Chuyên Cần. 
  • Chuyên: Tập trung tâm trí vào một việc, một sự nghiệp. 
  • Cần: Lo và làm hết sức mình, không quản khó nhọc. 
  Chỉ giản dị có 2 chữ "Chuyên cần", mà theo được đúng, thật khó biết bao! 
  Ý hướng học tập của Việt Võ Ðạo Sinh có 5 điểm căn bản: 
  Học cho rộng: Học ở đây thuộc phạm vi võ đạo và võ thuật, cả lý thuyết và thực hành, từ những thế, đòn, miếng tới ý thức hệ Việt Võ Ðạo, từ ý thức hệ Việt Võ Ðạo tới các ý thức võ đạo và võ thuật của các môn võ khác trên thế giới. Chỉ giản dị có bấy nhiêu thôi, cũng đòi hỏi ở chúng ta biết bao nhiêu công phu học hỏi, nghiên cứu, thực tập. 
  Hỏi cho kỹ: Mỗi người đều có óc thiên bẩm, có mức thông minh khác nhau, có chí hướng và nghị lực hơn kém nhau. Nhưng tất cả đều giống nhau ở điểm: học điều gì chưa biết rõ, thì phải hỏi. Hỏi ở thầy, ở bạn trong cuộc sống. Hỏi một lần chưa hiểu được thấu đáo, sẽ hỏi nữa, hỏi cho kỹ lưỡng, không bỏ cuộc nửa chừng, không tự ái chán nản. 
  Nghĩ cẩn thận: Khi đã hiểu rồi, còn phải suy nghĩ thêm về những điều mình đã học. Suy nghĩ càng thêm cẩn và thận trọng, lúc thi hành càng ít lỗi lầm. Thói quen suy nghĩ sẽ làm ta hiểu nhanh, biết rộng, luôn luôn tìm thêm được những ý nghĩ mới, ý kiến mới, ý niệm mới. Thiên kiến sáng tạo, phát minh, chính một phần lớn là kết tinh của những công trình suy nghĩ. Môn phái Vovinam sở dĩ hình thành được, mở đầu là công trình suy nghĩ của Cố Võ Sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc. Trong lịch sử, những danh nhân làm nên sự nghiệp lớn là những người có thói quen suy nghĩ, chuyên cần suy nghĩ. Người có thói quen suy nghĩ cẩn thận, kỹ lưỡng, là người không bao giờ mắc phải những lỗi lầm quan trọng do sự vội vàng, cẩu thả tạo nên. 
  Luận cho sáng: Không một sự việc nào trong đời sống không bắt chúng ta phải suy luận. Những luận cứ, nếu càng sáng rõ bao nhiêu, càng dễ tới thành công bấy nhiêu. Muốn luận cho sáng, chúng ta phải hàm dưỡng đầy đủ những công phu quan sát, phân tích, tổng hợp, biện luận, phản luận và kết luận mau lẹ bao nhiêu, trí tuệ chúng ta càng thăng hoa bấy nhiêu, và càng gần với đích thành công bấy nhiêu. 
  Làm hết sức mình: Làm, trong việc học võ là thực tập võ thuật. Làm, trong đời sống là luyện cho chúng ta một thói quen ham hoạt động, ưa chuộng thực tế, không ảo tưởng. Không một ai thành công lớn hay lâu dài trong cuộc sống nếu những người đó chỉ làm hết một nửa sức mình. Muốn làm hết sức mình, phải luôn luôn tự đào luyện cho mình một kỷ luật tinh thần vững chắc, một ý thức về công việc đầy đủ. Lại luôn luôn vừa làm, vừa học, để mỗi ngày có thêm kinh nghiệm quý giá hơn, gặt hái được nhiều thành quả hơn. 
  Kế đó, đến phần rèn luyện tinh thần. 
Phương pháp rèn luyện tinh thần của Việt Võ Ðạo Sinh có thể thâu gọn vào việc phát triển và rèn luyện những đức tính: 
  • Ðức tính sống khỏe: Khỏe mạnh về cả tinh thần lẫn vật chất, để trí óc được luôn luôn thăng bằng. Trí óc thăng bằng là đầu mối của mọi đức tính. 
  • Ðức tính đức độ: Luôn luôn bao dung, điều hoà khắc chế mình và tha thân (người) để cùng tiến bộ. 
  • Ðức tính cương trực: Tức đức tính cương quyết và thẳng thắn, một đức tính tối cần cho nhà võ. 
  • Ðức tính trầm tĩnh: Chìm lắng và bình tĩnh, để tránh những trường hợp xốc nổi, nóng nảy, vội vàng, dễ dàng đưa tới thất bại. 
  • Ðức tính tháo vát: Rèn luyện thói quen có thể ứng biến với mọi hoàn cảnh, trong mọi trường hợp. 
  Sau hết, và cũng quan trọng hơn hết, Việt Võ Ðạo Sinh phải trau giồi đạo hạnh. 
  Thế nào là "đạo hạnh"? 
Ðạo hạnh chính là 2 tiếng gọi tắt của 5 tiếng "phẩm hạnh Việt Võ Ðạo". 
  Phẩm hạnh Việt Võ Ðạo vô cùng cần thiết cho sự rèn luyện tâm thân của Việt Võ Ðạo Sinh trong cả đời công cũng như trong đời tư, vừa phù hợp với đạo và võ thuật, vừa thích ứng với mọi hoàn cảnh. 
  Chúng ta đều biết giá trị của cuộc sống có 3 thành tố: Âm tố, Dương tố và Ðạo thể. 
  Âm tố, tượng trưng cho sự mềm, sự tĩnh, sự tối. Dương tố tượng trưng cho sự cứng, sự động, sự sáng. Vòng đạo thể bao người, với những phẩm danh: 
      Phối hợp 
    Khắc chế 
    Ðiều hoà 
    Bao dung 
  Phối hợp, khắc chế, điều hòa, bao dung, những tính mềm (nhu), cứng (cương), tĩnh, động, tối, sáng của tạo vật, chính là những phẩm tính của đạo, của võ đạo, của Việt Võ Ðạo. Ðó là những phẩm hạnh căn bản mà một Việt Võ Ðạo Sinh phải luôn luôn trau giồi, để làm tròn sứ vụ võ đạo của mình. Và, đó cũng là những phẩm hạnh căn bản, đầu mối của mọi đức tính. 
  Tóm lại, tất cả giải đáp trên được đúc kết lại thành điều tâm niệm thứ 6: 
        Việt Võ Ðạo Sinh Chuyên Cần Học Tập, Rèn Luyện Tinh Thần, Trau Dồi Ðạo Hạnh. 

  Điều 7. Tâm Nguyện Sống Của Việt Võ Ðạo Sinh 

  Khi rèn luyện tâm thân là Việt Võ Ðạo Sinh đã tự tạo cho mình tâm nguyện sống: Tâm nguyện sống được thể hiện bằng 4 đức tính: 
  Trong sạch 
Giản dị 
  Trung thực 
  Cao thượng 
  Bốn đức tính trên, không những chỉ phù hợp với Việt Võ Ðạo Sinh, mà rất có thể phù hợp với các tôn giáo và các tổ chức dân sự cũng như quân sự. Tuy nhiên, Việt Võ Ðạo Sinh là những người dũng mãnh, thực tế, nên việc làm thể hiện những đức tính đó có tính cách tích cực, ngang nghiên và linh hoạt. Trong khi các tu sĩ thì thể hiện những đức tính trên theo tinh thần tiêu cực, chìm lặng vào nội tâm. 

  1. Về đức tính trong sạch: 

        Với các tu sĩ, thì trong sạch có nghĩ là: mắt không nhìn những gì ô uế, tai không nghe những gì tà mị, không nghĩ những điều vẩn đục, để ngăn chặn những hành động xấu xa ngay từ gốc rễ. Việt Võ Ðạo Sinh không thế. Vì sống trong lòng xã hội phải hoà hợp với mọi người, mọi giới, chúng ta không thể bưng tai bịt mắt trước những tội lỗi, xấu xa của xã hội, mà trái lại, phải lắng tai, phải nhìn thẳng vào mọi sự việc để giải quyết và cải thiện nó. Miễn là chúng ta không bao giờ để cho những tội lỗi, xấu xa đó làm xao xuyến, vẩn đục tâm hồn mà phát động ra những lỗi lầm, tội lỗi. 

  2. Về đức tích giản dị: 

       Với các tu sĩ thì giản dị có nghĩa là: Ăn, ở, trang phục đều đơn sơ, đạm bạc. Mặc dầu khi có đủ điều kiện để hưởng ứng những tiện nghi, hoa mỹ, cũng không dùng tới. Trái lại, giản dị đối với Việt Võ Ðạo Sinh là những người bình thường nên cũng có những nhu cầu thông thường và muốn được thỏa mãn, song không hạch sách, đòi hỏi, gây phiền toái, khó chịu mọi người. Ðức tính giản dị làm cho Việt Võ Ðạo Sinh luôn luôn thích ứng với mọi hoàn cảnh và dễ dàng được thiện cảm của mọi người. 
  Chúng ta cũng phải cần phân biệt giản dị khác với lập dị. Một người có nhà cao cửa rộng, chăn ấm, nệm êm, nhưng vì muốn được khen là giản dị, lại vác chiếu xuống nằm ở một hóc bếp thì đó chỉ là lập dị. Cũng như một thiếu niên, nhờ sinh trong một gia đình khá giả, cha mẹ may mặc cho những hàng đắt tiền, quý giá lại bỏ đó đòi may những hàng vải xấu thô kệch thì cũng chỉ là lập dị. Hoàn cảnh cho phép thì ta cứ dùng, chỉ khi nào hoàn cảnh không có mà cầu kỳ, đòi hỏi nọ kia thì mới là thiếu giản dị. 

  3. Về đức tính trung thực: 

       Trung thực với môn phái, với người trên, và với cả mọi người nữa. Nhưng trung thực không có nghĩ là không biết tới sự gian trá, nhưng tự thắng mình để không bị nhiễm tính gian trá, đó mới là phẩm cách xứng đáng của Việt Võ Ðạo Sinh. Ðối với người ngoài, trung thực cũng không có nghĩa là ngây thơ, đần độn, để hứng chịu tất cả mọi âm mưu lừa đảo và khuynh đảo. Trong những trường hợp cần thiết, người trung thực phải chứng tỏ cho kẻ gian trá hiểu rằng lối sống và những thủ đoạn gian trá của họ không thể thành công. Ðó là đức tính trung thực của Việt Võ Ðạo Sinh. 

  4. Về đức tính cao thượng: 

       Cao thượng không phải là một đức tính thường lệ, chiếu lệ, mà cao thượng là một đức tính ứng dụng trong những truờng hợp đặc biệt. 
  Ví dụ: Khi giao đấu, ai cũng biết rõ anh A là người có bản lãnh võ thuật hơn anh B. Nhưng anh A không chịu ra đòn, và cứ nhường nhịn mãi, tới lúc bị anh B đánh ngã. Trong thâm tâm anh A muốn chứng tỏ mình là một cao thượng nên đã áp dụng đức tính này trong một trường hợp thông thường. Tất nhiên mọi người xung quanh chẳng những có thể cho rằng anh A kém tài, mà còn có thể ngộ nhận rằng anh ta là người gàn dở, thiếu tinh thần thể thao. 
  Ngược lại nếu anh A là người có tử thù với anh B, nhưng tới lúc có thể trả thù được, anh A không làm, vì anh B đã thành thực hối lỗi. Ðây là một trường hợp đặc biệt, nên ai cũng thấy rõ rằng anh A là người cao thượng. 
  Tuy nhiên, việc rèn luyện đức tính cao thượng. đã khó mà việc hành xử sao cho đứng đắn, càng khó hơn. Ðức tính cao thượng không phải là thái độ bất chợt, một nghĩa cử xuông, mà là một công phu hàm dưỡng từng ngày. 
  Tóm lại, 4 đức tính đã được tóm tắt trong điều tâm niệm thứ 7 của Việt Võ Ðạo Sinh: 
        Việt Ðạo Sinh Sống Trong Sạch, Giản Dị, Trung Thực Và Cao Thượng. 

  Điều 8. Ý Chí Của Việt Võ Ðạo Sinh 

  Khi đã có tâm nguyện sống, Việt Võ Ðạo Sinh còn phải rèn luyện ý chí. Người xưa thường phân ý chí ra là 3 loại, với lối diễn tả gợi hình: 
  Loại ý chí lau sậy: Tức là loại ý chí dễ ngả nghiêng, hay thay đổi, gió chiều nào ngã theo chiều ấy, dễ bẻ dễ gẫy, không có chủ định gì cả. 
  Loại ý chí gỗ mục, củi cùn: Khá hơn một chút, vì có đôi chút công dụng trước khi bị mục hẳn hay cùn hẳn. Nhưng khi đã mục hẳn, cùn hẳn rồi thì lúc đó còn là những vật đáng bỏ và chờ đợi sự mai một. 
  Loại ý chí đanh thép: Tức loại ý chí vững vàng nhất. Thép là vật liệu phổ thông, nên ai nấy đều hiểu rõ công dụng của nó là vững vàng, chắc chắn. Ý chí của những người đại trượng phu, những bậc anh hùng: Để lâu ngày có thể bị rỉ sét, nhưng không thể bẻ gẫy được. 
  Là Việt Võ Ðạo Sinh, tất nhiên chúng ta phải tự rèn rũa, tôi luyện lấy một ý chí đanh thép. Hơn thế nữa, chúng ta phải kiện toàn ý chí đanh thép ấy, để ý chí chúng ta luôn luôn ngời sáng không bị rỉ sét. 
  Trong thực tế, muốn kiện toàn ý chí đanh thép, Việt Võ Ðạo Sinh phải: 
  Trước khi quyết định, cần thâu lượm, cân nhắc kỹ càng các sự kiện và dữ kiện.
  Khi bắt tay vào việc rồi, thì không đắn đo nữa, phải thực hiện kỳ được, với tất cả sở năng, mau lẹ và kiên quyết. 
  Ðã có ý chí là phải hành động. Hành động là đá thử vàng để tìm hiểu xem ý chí đó có thật là đanh thép không. Trong đời sống, chúng ta đã gặp biết bao nhiêu người thích nói mạnh, khỏe giỏi, nhưng vừa chậm chạp phải những khó khăn của thực tế liền lùi bước lẩn tránh ngay. Ðó là trường hợp của những anh hùng rơm, ngọn lửa ấy chỉ bốc cháy rất mau, thật lớn, nhưng đã sớm tàn lụi ngay. 
  Do đó, ý chí đanh thép còn cần phải băng qua một cuộc thí nghiệm nữa, mới có thể chứng tỏ nghị lực và hành động của người có nó. Ý chí đanh thép phải đụng chạm với những khó khăn trở ngại của thực tế mới chứng tỏ được sự rắn chắc và bền bỉ. Còn khó khăn, trở ngại nào đáng giá cho bằng những khó khăn, trở ngại khi phải đương đầu với cường quyền, bạo lực? 
  Như Hưng Ðạo Ðại Vương đứng trước thế ào ạt, dũng mãnh của cường địch, thấy quân mình ít, thế yếu, mà vội đầu hàng thì làm sao mấy lần đại thắng quân Mông Cổ, hầu biểu dương ý chí đanh thép, cương quyết. 
  Nếu Trần Bình Trọng chịu khuất phục, đầu hàng ngay sau khi bị bắt, và chỉ nói câu "Ninh vi Nam quỷ, vô vi Bắc Vương" (thà làm quỷ nước Nam, không làm vương đất Bắc) ở hậu tuyến, thì ông còn làm gì được kể là người có ý chí đanh thép. 
  Nếu Nguyễn Cao, Phó Nguyên súy nghĩa quân Cần Vương Bãi Sậy mà đầu hàng Thống Sứ Bihourd để ra làm quan với Pháp, thì ông đâu còn là người có ý chí kháng Pháp đanh thép. 
  Cường quyền, bạo lực là những thử thách lớn nhất và hữu hiệu nhất của ý chí đanh thép. Cho nên có ý chí đanh thép thôi, chưa đủ, còn cần phải kiện toàn nó, và để nó không bao giờ bị khuất phục trước cường quyền, bạo lực. 
  Ðúc kết lại điều tâm niệm thứ 8 là: 
  Việt Ðạo Sinh Kiện Toàn Ý Chí Ðanh Thép, Thắng Phục Cường Quyền, Bạo Lực 

  Điều 9. Nếp Suy Cảm, Nghị Lực, Và Tính Thực Tế Của Việt Võ Ðạo Sinh 

  Ðiều tâm niệm thứ 9 bao gồm 3 mục tiêu: 
    Nếp suy cảm 
    Nghị lực 
      Tính thực tế 
  1 - Ý thức hệ Việt Võ Ðạo công nhận mọi sự việc trên đời đều có 2 mặt tương phản và 2 giá trị đối lập đó luôn luôn ở tình trạng thôi thúc nhau để sinh hóa, nhưng đồng thời cũng thừa nhận một thực thể thứ 3 giữ vai trò phối hợp, khắc chế, điều hoà, bao dung cả 2 phản tố để tồn tại. 
  Với ý thức hệ đó, Việt Võ Ðạo Sinh không có thành kiến qui định vĩnh viễn những gì là hoàn toàn tốt, những gì là hoàn toàn xấu, và luôn luôn đứng trên cương vị bao dung, hoán cải. Một sự việc xét theo khía cạnh này có thể là khiếm khuyết, song luận theo khía cạnh kia lại là ưu điểm. 
  Vì vậy, Việt Võ Ðạo Sinh cần sáng suốt nhận định để phân biệt và giải tỏa được mọi khúc mắc, để biết rõ bề mặt và bề trái của sự việc, ngỏ hầu xử sự cho hợp thời, đúng lúc. Có kẻ bề ngoài coi thật ôn hòa, khả ái nhưng bên trong lại đầy thủ đoạn, biếm nhẽ. Có người bên ngoài thật ngang ngược, thô bạo nhưng bên trong lại vô cùng thuần hậu, hiền lương. 
  Hơn nữa "gần mực thì đen gần đèn thì rạng", Việt Ðạo Sinh phải sáng suốt nhận định để lánh xấu, gần tốt, phân biệt được người thực, kẻ giả, người hiền, kẻ ác. Lầm thù thành bạn đã là một lầm lỗi đáng kể, thiệt hại tới bản thân, nhưng lầm bạn ra thù thật là một lỗi lầm quan trọng, mang hận suốt đời không bao giờ tha thứ được. Vì đời người dễ đâu mỗi lúc đã kiếm được người tri kỷ. 
  2 - Câu chuyện Câu Tiễn nước Việt muốn phục thù Ngô, đã chịu bao thảm nhục chăn ngựa, nếm phân, rồi nằm gai nếm mật, luyện quân, cải cách nội trị trong suốt mấy chục năm đáng để cho chúng ta suy nghĩ. Và Bình Ðịnh Vương Lê Lợi, trong 10 năm kháng Minh, biết bao nhiêu lần Vương gặp thảm cảnh quân sĩ tan nát, phải trốn chạy thảm nhục. Nhưng Vương cũng như vua Việt Câu Tiễn, không một chút nản lòng. Phần nhiều những người có nghiệp lớn, đều có nghị lực, bền vững, sâu xa và chí khí lớn rộng như vậy. Thất bại không hề ngã lòng. Sức mạnh không thể khuất phục. Họ lần lượt giải quyết những khó khăn, bằng cách bền bỉ và dẻo dai đương đầu với những khó khăn. Họ là những người có nghị lực sung mãn.   Chúng ta gọi họ là những người bền gan tranh đấu, cũng như quần chúng thường gọi là những người to gan, lớn mật. 
  Việt Võ Ðạo Sinh chúng ta phải kế tục những ảnh hưởng đó: "bền gan tranh đấu". 
  Có bao nhiêu trường hợp "tranh đấu" đòi hỏi chúng ta phải "bền gan" 
Mạnh tử đưa ra ba trường hợp tranh đấu lớn trong đời sống. Ba trường hợp điển hình cho sự tranh đấu, mà nếu viên mãn được, đó là mẫu người đại trượng phu, lý tưởng. 
  Trường hợp trước uy vũ: Uy quyền và bạo lực, không thể làm khuất phục được (uy vũ bất năng khuất) 
  Trường hợp trước sự nghèo đói: Trước sự nghèo đói của bản thân, chí khí vẫn không bao giờ đổi, không ai có thể mua chuộc được (bần tiện bất năng di). 
 Trường hợp trước sự giàu sang: Giàu sang dễ làm hỏng con người, bị choáng ngợp trong những phương tiện hưởng lạc dồi dào, cũng là một trường hợp thử thách lớn. Khi giầu sang, vẫn không kiêu sa dâm dật, tự chế phục mình mà không dời bỏ chí khí (phú quý bất năng dâm) 
  Ba trường hợp thử thách trên, cũng chính là ba trường hợp mà chúng ta thường gặp, thường nghe, thường thấy. Việt Võ Ðạo Sinh xử sự rất hợp với mẫu người đại trượng phu. 
  Kết hợp với đoạn trên, chúng ta có 2 phần đầu của điều tâm niệm thứ 9: "Sáng suốt nhận định, bền gan tranh đấu". 
  3 - Việt Võ Ðạo Sinh phải thực tế trong hành động. 
  Có 3 loại hành động. 
  Loại hành động "tếu": Phát sinh từ một thái độ lạc quan quá trớn, nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn một màu hồng, việc gì cũng dễ dàng, thành công tựa như một đồ vật để trong túi áo, muốn lấy ra lúc nào thì lấy. Người hành động tếu là người không bao giờ giốc hết tâm trí và khả năng vào một việc gì, và cốt làm chiếu lệ với một thái độ tếu. Lúc gặp khó khăn trở ngại lớn, cách giải quyết hay hơn hết là bỏ chạy, rồi đổ vây lỗi cho hoàn cảnh hay người khác, và coi như việc đó đã giải quyết xong. 
  Loại hành động "dựa dẫm": Khác với hành động trên phát sinh từ một thái độ lạc quan quá trớn, những người có thái độ hành động dựa dẫm, nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn những khó khăn trở ngại không thể vượt nổi. Quan niệm ấy phát sinh từ thái độ bi quan quá lố mà ra. Do đó, nẩy sinh óc thụ động, làm việc với thái độ ỷ lại, dựa dẫm, máy móc, chiếu lệ. Lúc gặp khó khăn, trở ngại lớn, chưa đối đã nghĩ tới thất bại, có tâm lý chủ bại, thụ động trước hoàn cảnh, rồi đổ vấy cho số mạng, định mạng. Ngược lại, lúc gặp hoàn cảnh thuận tiện, cũng không dám đích thân bắt lấy cơ hội, tự lực giải quyết. Hành động dựa dẫm hoàn toàn có tánh cách cầu an, thụ động. 
  Tất nhiên cả 2 loại hành động này không hợp với tinh thần Việt Võ Ðạo, chúng ta gạt bỏ. 
  Loại hành động tháo vát: Không hành động tếu, không hành động dựa dẫm, tất nhiên chỉ còn một con đường hành động thứ 3 nữa, phù hợp với tinh thần Việt Võ Ðạo Sinh là hành động tháo vát. Hành động tháo vát là loại hành động chủ động, thông minh, nhiều sáng kiến, thích ứng một cách hợp tình, đại lý với mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp. Người có hành động tháo vát luôn luôn yêu người, kết hợp với người nhưng không dựa dẫm vaò người. Là người luôn luôn ứng phó mau lẹ với mọi hoàn cảnh, nghịch cảnh, nhưng không vướng phải những lầm lỗi quan trọng như hãnh tiến, bừa bãi, kiêu binh, khinh địch. 
  Tóm lại 3 mục tiêu trên được đúc kết thành điều tâm niệm thứ 9 : 
  Việt Võ Ðạo Sinh Sáng Suốt Nhận Ðịnh, Bền Gan Tranh Ðấu, Tháo Vát Hành Ðộng. 

  Điều 10. Ðức Sống Và Tinh Thần Cầu Tiến Của Việt Võ Ðạo Sinh. 

  Sau những giải đáp về nếp suy cảm, nghị lực và hành động,Việt Võ Ðạo Sinh phải tự kiện toàn bằng 4 đức tính: Tự tin, tự thắng, khiêm cung, độ lượng. 
  1. Tự tin: Tin ở mình. Tuy nhiên, khi nói tin ở mình, cũng không có nghĩa là tin ở những"tin xấu" của mình, vì những tính xấu không có gì đáng đặt vấn đề tự tin hay không tự tin. 
  Phải tin ở mình, tức phải tin những gì tốt đẹp nhất mà mình có, như ý chí, đạo đức, danh dự, niềm tin, khả năng võ thuật. 
  Vào thực tế, tại sao đức tính đầu tiên của Việt Võ Ðạo Sinh phải là đức tính tự tin? Chính vì phân biệt giữa người trưởng thành và người chưa trưởng thành, phân biệt giữa người có tư cách, có khả năng thực sự với kẻ thô lậu, huyênh hoang là đức tính tự tin. 
  Mình có tin ở mình thì người mới tin được mình. Không có đức tính tự tin không thể thành công. 
  Tự tin theo nghĩ rộng, còn có một ý nghĩa tích cực nữa, là phát huy phần tốt đẹp trong con người của mình, để mỗi lúc một thăng hoa hơn, làm việt có hiệu quả hơn. 
  2. Tự thắng: Thắng mình. Tất nhiên, không phải là thắng những gì tốt đẹp của mình: mà là thắng những thói hư tật xấu, những vị kỷ yếu đuối trong con người của mình. 
  Thói hư, tật xấu trong con người chúng ta có rất nhiều, tùy thuộc ở tham vọng, dục vọng của mọi người. Những thói hư tật xấu ấy nhiều đến nỗi tiền nhân chúng ta phải lập luận "sống mỗi người một nết, chết một người một tật". Tuy nhiên, về mặt tích cực, không ai trong chúng ta không ao ước: mỗi ngày tự chế ngự được nhiều tính xấu hơn, tự tăng tiến được nhiều tính tốt hơn. Chính cố gắng để ngày một tốt hơn là cách tự thắng tích cực hơn cả, vì nó làm mới, làm đẹp, làm tiến bộ con người. 
  Tự thắng những gì là hư, xấu trong con người của mình nhất định sự nghiệp của mỗi chúng ta sẽ bớt đi một số trở ngại, khó khăn do chính chúng ta tạo ra. 
  3. Khiêm cung: Tức khiêm nhường, cung kính với người trên, hay người trong độ tuổi hơn mình. Ðức tính khiêm cung sẽ làm chúng ta mỗi ngày được nhiều người cảm mến hơn. 
4. Ðộ lượng: Tức đức độ, rộng lượng với người dưới, hay người nhỏ tuổi hơn mình. Ðức tính độ lượng sẽ làm cho chúng ta mỗi ngày thêm gần thân với lớp người trẻ hơn. Chúng ta sẽ dễ dàng thông cảm hơn với người dưới và nhỏ tuổi hơn ta, khi ta thành thật chia xẻ tình cảm và những thắc mắc của họ trong đời sống, bằng lòng độ lượng. Ðó cũng là một trong những bí quyết thành công. 
  Tóm lại, khi đối xử với mình và với người, Việt Võ Ðạo Sinh phải luôn luôn nhớ tới 4 đức tính đã được đúc kết thành đoạn đầu của điều tâm niệm thứ 10: "Tự tin, tự thắng, khiêm cung, độ lượng". 
  Tu dưỡng được 4 đức tính tự tin, tự thắng, khiêm cung, độ lượng rồi, Việt Võ Ðạo Sinh khả dĩ mang được "đạo" vào "đời", hay nói khác đi, đã có thể hành xử được sứ vụ Việt Võ Ðạo trong sinh hoạt thường nhật qua những cách xử lý tiếp nhận. 
  Tuy nhiên đường đi còn dài, trong công cuộc tu dưỡng 10 điều tâm niệm trên, sẽ có lúc cá tính chúng ta như một con ngựa bất kham, không chịu đi đúng đường, chúng ta gặp sai lầm. Rồi sau đó, chúng ta mang mặc cảm tội lỗi, thiếu tin tưởng ngay chính với bản thân. Cũng như một người đi đôi giầy mới trên con đường bùn lầy, mới đầu còn gượng nhẹ, sau giẫm cả đôi giầy xuống bùn vì nghĩ rằng: "đằng nào cũng đã bẩn rồi". 
  Tinh thần ấy, chẳng những không phù hợp, mà còn phản bội cả tinh thần Việt Võ Ðạo, phá tan tất cả nhũng gì tốt đẹp nhất mà mỗi chúng ta đã dày công tu dưỡng và xây dựng nên. Chúng ta phải còn can đảm nhìn lại bước đường đã qua để tự tu tỉnh. Lỗi lầm nào trong quá khứ cũng có thể tha thứ được, nếu hiện tại của chúng ta trong sạch và cao thượng. Chúng ta, cũng không nhìn lại bước đường đã qua bằng cặp mắt kiêu ngạo, tự đắc, tự mãn, hoặc than van, thương tiếc, mà nhìn lại với mục đích: "luôn luôn kiểm điểm để tiến bộ". 
  Ðó chính là điều kiện căn bản để thực hiện cuộc cách mạng tâm thân, được coi như một công trình tư dưỡng không ngừng của mỗi Việt Võ Ðạo Sinh để diệt trừ những cái xấu, tệ, dơ hầu phát huy không ngừng những cái tốt, hay, đẹp về cả 2 phương diện tinh thần và vật chất. 
  Vì vậy, khuyên điều chót của Việt Võ Ðạo Sinh chính là phần cuối điều tâm niệm thứ mười: "luôn luôn kiểm điểm để tiến bộ". 
  Tựu trung, đường hướng xử kỷ, đối nhân và phản tỉnh của Việt Võ Ðạo Sinh đúc kết trong điều tâm niệm thứ 10: 
  Việt Võ Ðạo Sinh Phải Tự Tin, Tự Thắng, Khiêm Cung, Ðộ Lượng, Luôn Luôn Kiểm Ðiểm Ðể Tiến Bộ.