Social Icons

Pages

Hiển thị các bài đăng có nhãn tin tuc giai tri. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tin tuc giai tri. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 2 tháng 5, 2016

Khán giả điêu đứng với những đòn chân “siêu đỉnh” của Vovinam

Đòn chân của Vovinam cuốn hút khán giả

Với những đòn chân đẹp mặt, màn trình diễn môn võ Vovinam để lại ấn tượng sâu đậm đối với không chỉ khán giả trong nước mà cả bạn bè quốc tế tại Liên hoan võ thuật Quốc tế TP.HCM 2016.
Môn sinh Arnis “choảng” nhau trước Nhà hát lớn TP.HCM
Bài Kata – Bunkai đẳng cấp của Karate Việt Nam tại Liên hoan Võ thuật
Tham gia trình diễn giao lưu tại Liên hoan võ thuật sinh viên TP.HCM, một sự kiện nằm trong khuôn khổ Liên hoan võ thuật Quốc tế 2016, các bạn sinh viên trường ĐH Sư phạm TDTT TP.HCM đã có màn biểu diễn ấn tượng với môn Vovinam.  Điều gây sức hút nhất có lẽ chính là những đòn chân trong môn võ này. Bạn khán giả Hoàng Hiểu Minh ( 22 tuổi, sinh viên Trường ĐH Tôn Đức Thắng) cho biết: “Mình rất hay tìm hiểu về các môn võ, nhưng khi đến đây xem trực tiếp thì mình thực sự ấn tượng với môn võ Vovinam – Việt Võ Đạo, đặc biệt là các đòn chân, các bạn sinh viên trình diễn rất cuốn hút.”
Hệ thống đòn căn bản của Vovinam bao gồm các thế hóa giải (phản đòn) đòn tấn công của đối thủ, khóa gỡ, 21 đòn chân cơ bản (sau năm 1975 đổi tên thành 21 đòn chân tấn công) và các thế vật. Trong đòn chân cơ bản có các đòn móc chân, đạp 2 chân, đá 2 chân còn “quặp cổ” là các đòn khóa cổ và vật bằng chân cao cấp của Vovinam.

Cùng xem loạt ảnh ấn tượng của Vovinam tại Liên hoan võ thuật Quốc tế TP.HCM 2016:













Vovinam Hà Nam

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

Có nên đưa kỹ thuật vật vào thi đấu đối kháng Vovinam?

Một thế vật của Vovinam


Môn phái Vovinam dựa trên nền tảng võ và vật cổ truyền Việt Nam, nhưng trong hệ thống  luật thi đấu đối kháng hiện nay chưa cho phép sử dụng các đòn vật. Vậy có nên đưa kỹ thuật vật vào thi đấu đối kháng Vovinam hay không? và lộ trình đưa vào ra sao? Xin giới thiệu đến quý bạn đọc bài viết của võ sư Châu Minh Hay về vấn đề này.

Triết lý kỹ thuật và tinh thần của Vovinam – Việt Võ đạo

Kỹ thuật đòn chân đẹp mắt của Vovinam


Điều gì sẽ xảy ra?

“Môn phái Vovinam dựa trên nền tảng võ và vật cổ truyền Việt Nam” . Đó là câu nói đầu tiên khi người môn đồ của Vovinam được người hướng dẫn truyền đạt cho lý thuyết võ đạo cơ bản ngay từ thời gian mới bước chân vào ngưỡng cửa môn phái. Điều này đã nói lên rằng hệ thống kỹ thuật của Vovinam chứa đựng 2 phần võ và vật, thể hiện qua chương trình huấn luyện các cấp.

Vovinam được khai sinh trong bối cảnh đất nước đang cơn binh biến, cho nên bản thân nó là một môn võ quân sự, nhằm đáp ứng các tình huống tự vệ và chiến đấu xuyên suốt nhiều thập kỷ. Người học Vovinam sau một thời gian nhất định sẽ có thể tự vệ tốt, sau đó chuyên cần theo đuổi chương trình cấp cao hơn thì có thể thực hiện các biện pháp chiến đấu hết sức hữu hiệu khi đối diện với tình huống hiểm nguy.



Vật cổ truyền dân tộc
Sau năm 1992, Vovinam được biết đến như một môn võ thể thao! Chú trọng về biểu diễn nhiều hơn là tính chiến đấu. Và dần dần với sự hội nhập cùng thể thao thế giới thì Vovinam hoàn toàn chuyển mình phục vụ mục đích thể thao nhằm nâng cao sức khỏe cho mọi lứa tuổi. Cũng từ đó, sự đơn giản hóa trong các bài huấn luyện cũng được thể hiện khá rõ! Tuy đã được tinh giản nhưng trong chương trình vẫn tồn tại và phổ biến 18 thế vật căn bản được huấn luyện thường xuyên.

Trước 1975 và sau đó một thời gian vào khoảng cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, thì một số nơi vẫn áp dụng chương trình thi thăng cấp cũ . Thí sinh thi lên cấp Huyền đai (Hoàng đai trơn), ngoài đòn thế căn bản và quyền, thì các thí sinh đều phải thực hiện 3 hiệp đấu tự do (đối kháng) và một hiệp vật tự do. (không găng, không giáp) nếu có cũng chỉ găng mỏng (găng tập). Thời đó không có thảm đấu như bậy giờ, thảm đấu vật là một thứ xa xỉ chỉ được thực hiện vào các kỳ thi lên cấp Trung đẳng bằng chất liệu mùn cưa và vỏ trấu, bên trên phủ một lớp vải bao cát hay bao bột mì.

Xét về tính thực dụng thì vật là một môn chiến đấu khá gần gũi với sinh hoạt đời thường. Vật là một phản xạ tự nhiên đã hình thành rất sớm cho con người.

Quan sát cho thấy, 2 đứa bé con chỉ 1, 2 tuổi, không ai dạy cho chúng võ thuật, nhưng khi túm lấy nhau thì chúng đã biết ghì lấy và vật nhau. Cũng từ những phản xạ mang tính bẩm sinh mà người xưa đã khai thác và sáng tạo ra những thế vật tùy thuộc vào các tư thế, các tình huống khác nhau. Sáng tổ môn phái Vovinam đã không bỏ lỡ món quà thiên phú ấy.

Nếu trong các trận đấu đối kháng của Vovinam, không đưa một vài, (vâng, chỉ một vài đòn chân tấn công bắt buộc, thời gian vài năm trở lại đây) thì khó có thể người xem nhận ra đó là các võ sĩ của môn Vovinam!

Họ thi đấu hoàn toàn với các đòn căn bản của võ thuật mà môn võ nào cũng có. Nếu xem một trận đối kháng của môn Pencak Silat chúng ta chưa hiểu về luật của môn này thì trông có vẻ rất nhạt nhẽo! Hay môn Taekwondo họ thuần thi đấu bằng chân và Juodo thì toàn quăng quật…Đó là những nét đặc trưng của các môn võ ấy.

VĐV môn Pencak Silat đầu trần tay không

Còn Vovinam thì sao? không có nét đặc thù nào nếu không đưa vài đòn chân vào áp dụng! Tuy nhiên hiệu quả không cao và thường thì chỉ có thể áp dụng 3 – 4 trong số 21 đòn chân tấn công! Phải chăng chúng ta chưa khai thác hết nét đặc trưng của môn phái “lấy võ và vật cổ truyền làm nền tảng căn bản” ?

Võ thì thấy rồi, chỉ những đòn căn bản chung chung mà môn võ nào cũng sử dụng. Còn vật thì ở đâu chẳng thấy ?

VĐV môn Judo vật trên thảm

Từ giải đấu mang tính cả nước (giải Vovinam toàn quốc năm 1992) đến nay, người xem chỉ nhìn thấy võ sĩ Vovinam thi đấu với các đòn hết sức cơ bản của võ thuật, họ chưa thấy có gì gọi là đặc trưng của Vovinam! Vì vậy nên chăng, Vovinam nghiên cứu lại luật thi đấu, đưa hệ thống vật vào áp dụng trong thi đấu đối kháng.

Áp dụng thế nào?

Vài nét tham khảo sau đây sẽ cho chúng ta hình dung một trận đấu đối kháng “mới” của môn Vovinam.

Trước hết là quy định lại luật.

1- không được ra đòn vào phần mặt và đầu dù đấm hay đá. Chỉ được phép ra đòn từ vùng vai trở xuống.
Như vậy VĐV sẽ không cần thiết có trang bị nón bảo hộ (như luật thi đấu cho võ sĩ môn Pencak Silat áp dụng, không đội nón BH).

2- Chúng ta cũng nên thay giáp bảo hộ bằng loại giáp mỏng hơn như giáp bên Pencak Silat cho dễ cơ động.

3- Không sử dụng găng đấm (để tay trần) vì không được ra đòn trên vùng mặt nên không cần găng đấm.

Từ yếu tố tay trần này, võ sĩ sẽ có thể chụp kéo, nắm bắt nhằm thực hiện đòn vật của Vovinam đã được học.

Tất nhiên, nhà nghiên cứu luật cần phải nghiên cứu luật sao cho phù hợp. Chẳng hạn như VĐV vào đòn trong thời gian bao lâu mà không thực hiện được ý đồ thì trọng tài sẽ can thiệp. Khi VĐV vào được đòn vật, nếu áp dung hiệu quả thì được tính điểm (điểm thế nào thì còn tùy luật quy định). Nếu đè được đối phương đúng cách và sau thời gian được quy định là bao nhiêu giây thì sẽ được công nhận thắng tuyệt đối.

Về thời gian thi đấu thì vẫn áp dụng 3 hiệp đối kháng như luật cũ. Nhưng nếu một trong hai VĐV áp dụng được đòn vật đúng cách và đè hiệu quả theo thời gian quy định, thì được công nhận thắng tuyệt đối. Cho dù diễn biến này ở hiệp thứ mấy! có thể ngay phút đầu tiên của hiệp thứ nhất !

Về mức độ an toàn.

Ngày xưa các thí sinh thi lên đai không có thảm thi đấu chất lượng cao như ngày nay, nhưng vật tự do vẫn được đem ra áp dụng. Thảm thi đấu hiện nay đã phục vụ cho các cuộc thi của các môn như Vật hay Judo thì Vovinam không có gì ngoại lệ mà không sử dụng được. Có chăng là các nhà nghiên cứu luật thi đấu cần phải xem xét luật cho phù hợp với hình thức thi đấu mới cho môn Vovinam.

Có vậy thì người xem mới thấy được nét mới và thực dụng, đặc trưng của các trận thi đấu đối kháng môn Vovinam. Nếu không thì người xem sẽ chẳng thấy có gì với các môn võ khác trong các trận đấu, ngoài bộ võ phục màu xanh và dòng chữ Vovinam –Việt Võ Đạo.

Theo Blog Châu Minh Hay

Võ đường một học sinh, tôi vẫn lên lớp

Võ sư Quan Vân Triều – trưởng môn phái võ phái Nam Tông

Không ai nghĩ người đàn ông có hình dáng mảnh khảnh, nhỏ con lại là một võ sư vang bóng một thời của giới Võ lâm Sài Gòn – Chợ Lớn. Ông là võ sư Quan Vân Triều (66 tuổi), trưởng môn phái Nam Tông.

Võ sư Quan Vân Triều lúc nào cũng thân thiện, gần gũi với các học trò

Ông đến với võ thuật đến nay đã 50 năm. Trải qua bao thăng trầm trong làng võ, ông vẫn luôn giữ được phong độ và phẩm chất đạo đức, tư chất của con nhà võ cho đến nay mà trong giới võ thuật ai cũng biết tiếng.

Tuy vậy, nhưng ông có một cuộc sống lặng lẽ và âm thầm, không ồn ào, phô trương. Với ông, danh tiếng cũng chỉ làm con người ta tự mãn, tự cao, tự đại rồi từ từ quên đi cái gốc của con nhà võ nên ông chọn cho mình cuộc sống thầm lặng, cống hiến và chỉ truyền dạy cho những ai thực sự yêu nghề. Đó cũng là chính là đức tính mà ông được thừa hưởng từ võ sư Lê Văn Kiển, người thầy mà ông hết mực tôn sùng.

Trong mỗi lớp học, chỉ khoảng 20 em, ai cũng yêu mến vì ông có tấm lòng yêu thương trẻ vô hạn. Ông chưa một lần la mắng hay phạt các em nhưng ai cũng một mực nghe lời bởi cái uy và phong thái của một người thầy luôn làm các em kính trọng…

Với ông, sự thành công của học trò chính là niềm vinh dự, tự hào lớn nhất của một người thầy. Những thành viên trong võ đường luôn gắn bó và yêu thương nhau như một gia đình thứ hai.

Trải qua 50 năm trong làng võ và hơn 20 năm đi dạy võ, ông luôn tâm niệm “người ta dạy chữ, còn mình dạy võ – không thành danh thì cũng phải thành nhân”.

Lớp võ tại Nhà thiếu nhi Q.3 của võ sư Quan Vân Triều
Lớp học tuy chỉ có hơn 1h cho mỗi buổi tập, nhưng chất lượng cũng không kém, nhiều em tham gia giải trong và ngoài nước đã mang về rất nhiều thành tích, huy chương cho võ đường. Thành tích vinh dự nhất là em Dương Quốc Cường đã đạt Huy chương vàng võ thuật cổ truyền thế giới năm 2014 tại Hàn Quốc.
Cùng suy nghĩ như những phụ huynh khác, là một phụ huynh đã từng đưa con đi theo học 15 năm nay.

Anh Dương Vũ có con theo học đã 15 năm chia sẻ: “Trong tôi luôn đặt trong lòng mình một sự kính trọng bởi thầy là người có lòng nhân ái, đức độ, luôn hướng các em làm những việc thiện, thầy luôn nhắc nhở các học trò vè sự lễ phép, tôn trọng người lớn tuổi và biết yêu thương mọi người xung quanh…”

Hình ảnh về võ đường Võ phái Nam Tông:

Hơn 20 em

Chỉnh từ những thế cơ bản nhất cho các học trò

Những bài quyền thầy truyền cho các em


Bài siêu được thầy biểu diễn



Những binh khí được thầy dạy rất kỹ để làm sao đánh có uy và chính xác nhất


Anh Dương Vũ – phụ huynh đã cho con theo học 15 năm luôn đặt trong lòng sự thành kính với thầy Triều.
Theo Đinh Quang Tuấn/VietNamnet


Sự thật về cái chết của Lý Tiểu Long

Người tình tin đồn Đinh Phối và Lý Tiểu Long

Sau 41 năm im lặng, mới đây mỹ nhân nổi tiếng một thời Hồng Kông Đinh Phối đã lên truyền hình tiết lộ sự thật về cái chết của Lý Tiểu Long.

Vì sao Đinh Phối nói dối?

Tối ngày 20/7/1973, Lý Tiểu Long và Trâu Văn Hoài - chủ Hãng phim Gia Hòa - cùng đến nhà riêng của Đinh Phối để thảo luận công việc. Do cảm thấy mệt nên anh vào phòng nằm nghỉ sau khi uống vài viên thuốc và không lâu sau đó, mọi người phát hiện Lý Tiểu Long đã mất.

Ngay sáng hôm sau, Trâu Văn Hoài công bố với giới truyền thông tin Lý Tiểu Long qua đời với địa điểm được cho là tại nhà riêng. Thế nhưng, nhiều người khẳng định huyền thoại võ thuật đã trút hơi thở cuối cùng ở nhà tình nhân Đinh Phối, để rồi hàng loạt những thông tin thêu dệt được dựng lên quanh cái chết đột ngột của anh. Với riêng Đinh Phối, cô bị khán giả mắng chửi là kẻ nói dối.

Cách đây vài ngày, chia sẻ trong buổi ghi hình chương trình talkshow Có hẹn với Lỗ Dự (Lỗ Dự là tên nữ MC nổi tiếng ở Trung Quốc), Đinh Phối - bây giờ đã là người phụ nữ 67 tuổi - cho biết: "Lúc ấy, tôi không có quyền làm chủ lời nói của mình. Ông Trâu Văn Hoài bảo rằng gia đình Lý Tiểu Long không muốn công bố ra ngoài chuyện anh ấy mất tại nhà tôi nên đã nói dối là qua đời ở nhà riêng, có vợ bên cạnh. Sau đó, Linda - vợ Lý Tiểu Long và anh trai Lý Tiểu Long cũng xác định điều ấy. Suốt hơn 40 năm qua, tôi bị oan mà không biết giãi bày với ai. 

“Lý Tiểu Long chết vì tình dục, Lý Tiểu Long chết vì sử dụng thuốc kích thích quá liều,… là những gì tôi đã nghe suốt 40 năm qua. Áp lực của tôi khi đó mới 26 tuổi thật không thể tưởng tượng được. Quả thật anh ấy đã chết trên giường nhà tôi, nhưng đó là tai nạn bất ngờ do chứng phù não gây ra, không liên quan đến tôi”, người đẹp Đinh Phối nói.

“Tôi thấy Lý Tiểu Long thật có phúc, anh ấy đã ra đi trong giấc mơ của mình. Suốt 40 năm qua, có vài lần tôi gặp anh Lý trong mộng, anh ấy chẳng có gì thay đổi cả vẫn như xưa, có điều là anh ấy không nói gì cả”, Đinh Phối chia sẻ.

Hơn 40 năm ngậm ngùi làm "hồ ly tinh"? 

Chưa bao giờ sùng bái bất cứ một diễn viên võ thuật nào nên ngay lần đầu gặp mặt, Đinh Phối chỉ có ấn tượng tốt về Lý Tiểu Long, trong khi Lý Tiểu Long bị "tiếng sét ái tình". Để có thể tiếp cận người đẹp, anh đã mời Đinh Phối đóng phim. Sau nhiều lần tiếp xúc, tình cảm 2 người nảy sinh. 

Khi quen Lý Tiểu Long, Đinh Phối biết rõ anh đã có vợ và 2 con nhưng trước sự tấn công của Lý Tiểu Long, một cô gái trẻ không thể nào dửng dưng trước phong thái lịch lãm, hài hước của người đàn ông từng trải, lại nổi tiếng. Suốt mấy chục năm qua, minh tinh một thời gánh trên vai 3 chữ "hồ ly tinh". Đó là điều Đinh Phối cảm thấy oan ức vì tình cảm ngày xưa giữa bà và Lý Tiểu Long không ghê gớm như mọi người tưởng tượng.


Nữ minh tinh Đinh Phối (phải) năm nay đã 67 tuổi,
nhận lời tham gia talkshow của MC Lỗ Dự (trái)

Theo lời kể của Đinh Phối, khoảng 2 tháng trước khi qua đời, sức khỏe Lý Tiểu Long rất yếu, đã từng đột quỵ một lần tưởng không qua khỏi: "Chuyện này vợ anh ấy biết, Trâu Văn Hoài biết nhưng chẳng ai nói cho tôi biết", Đinh Phối chua chát nói.

Đinh Phối sinh 19/2/1947, cô từng là diễn viên nổi tiếng và là mỹ nhân một thời của làng giải trí xứ Cảng thơm. Tuy nhiên, tên tuổi và sự nghiệp của cô đã tan theo mây khói sau khi ngôi sao võ thuật nổi tiếng thế giới Lý Tiểu Long đột ngột qua đời.

Báo chí Hồng Kông, Trung Quốc trước đó đã tốn không ít giấy mực khi viết về cái chết của ông vua Kungfu Lý Tiểu Long. Sự việc diễn ra vào ngày 20/7/1973 khi ngôi sao họ Lý 32 tuổi đột ngột qua đời trên giường của người tình tin đồn Đinh Phối.

Theo nhiều nguồn tin, Lý tới nhà diễn viên Đinh Phối để bàn về vai diễn của cô trong phim Trò chơi tử thần. Khi đó, Lý nói anh bị đau đầu và lên giường nằm nghỉ chờ Đinh Phối đem thuốc giảm đau cho anh, điều khó hiểu là ông vua Kungfu vốn rất khỏe mạnh trước đó đã không bao giờ tỉnh lại sau khi uống thuốc giảm đau.

Việc ngôi sao võ thuật họ Lý chết trên giường của diễn viên Đinh Phối làm dấy lên nghi vấn xung quanh cái chết của anh, nhiều người cho rằng ông vua Kungfu đã chết khi đang “mây mưa” với người tình Đinh Phối. Có người lại nói Đinh Phối đã cho Lý uống “thuốc kích thích” quá liều dẫn tới tử vong.

Tuy nhiên, kết quả pháp y cho thấy ông vua Kungfu chết vì chứng phù não. Thế nhưng, dư luận và các ngôi sao võ thuật trong làng giải trí Hoa ngữ vẫn không tin khi rõ ràng Lý Tiểu Long chết trên giường của mỹ nhân Đinh Phối.

Khi đó, trước những áp lực và búa rìu dư luận, Đinh Phối một mực khẳng định cô không hại chết Lý Tiểu Long.

(Tổng hợp từ nhiều nguồn)

Bài học từ người thầy dạy võ




Bài học từ người thầy dạy võ


Cần phải biết đứng lên


CÂU CHUYỆN NGƯỜI VÕ SĨ 


Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2015

Tại sao cú Jab được sử dụng nhiều nhất trong các môn võ đối kháng?

Điểm xuất phát đến điểm va chạm gây sát thương ngắn nhất
Vâng, điều đầu tiên tôi muốn nói với các bạn rằng, nếu các bạn đang tập luyện boxing, kickboxing bán chuyên trở lên thì…hãy bấm next để đọc bài viết kế tiếp. Lí do rất đơn giản: vì đây chính là thuật ngữ quen thuộc nhất trong bộ môn của bạn, và những gì tôi sắp lải nhải dưới đây có thể sẽ khiến bạn nhàm chán.
Cách thực hiện đòn Jab (còn gọi là left jab vì đa số các võ sĩ đối kháng đặt tay trái ở trước)
Tôi xin nhắc lại: quen thuộc nhất – vì nó là thuật ngữ miêu tả cú đấm thông dụng nhất ở hầu hết các môn võ – đấm thẳng tay trước.
Cú đấm Jab có một chút khác biệt nhỏ ở các môn như quyền Anh, Kickboxing, Tán thủ….tuy nhiên, tựu chung lại, đây vẫn là cú đấm bận rộn nhất của võ thuật đối kháng. Người ta ước tính trong Boxing, 60% các đòn đấm là đòn Jab, Ở các bộ môn võ thuật đối kháng khác, tỉ lệ này giảm xuống do sự xuất hiện của đòn chân, nhưng Jab vẫn luôn là đòn được ưu tiên hàng đầu trong mọi chiến thuật tấn công – phản công.
Cú Jab có một ưu điểm đặc biệt, đó là nó sở hữu khoảng cách từ điểm xuất phát đến điểm va chạm gây sát thương ngắn nhất, so với các đòn khác.
Một yếu tổ chưa đủ để bạn cảm thấy cần nó? Vậy thì hãy nhìn cú Jab từ trực diện – bạn sẽ nhận ra ngay một điều, đây là cú đấm khó nhìn nhất, vì các quỹ đạo lắc vai, xoay gót, xoay hông….đều hết sức gọn và nằm trên một đường thẳng. Tất cả những gì bạn có thể nhìn thấy đó là cái găng của đối thủ hơi xoay một chút, hơi gần mặt hơn một chút, bụp! Và những gì sau đó bạn thấy có thể là máu mũi của bạn đang nhỏ xuống sàn đấu mà bạn vẫn chưa nhận ra mình vừa bị tấn công.

1 cú jab của tay đấm triệu đô Floyd Mayweather
Chưa đủ? Thêm một ưu điểm nữa nhé! Tư thế kết thúc của đòn Jab nằm ở vị trí tương đối an toàn, bảo vệ cằm (điểm yếu nhất, dễ bị knock-out nhất trên mặt bạn khi bị tấn công bằng băng boxing) của bạn, cũng như tạo tư thế hết sức thuận lợi để bạn có thể ngay lập tức bung ra một số đòn khác, rút ngắn thời gian chuẩn bị tư thế cần thiết cho những cú đấm về sau. Rất nhiều combo quen thuộc của Boxing đều bắt đầu với đòn Jab.
Một chiến thuật Boxing với mở đầu bằng cú Jab.
Một lời khuyên chân thành: Hãy chú ý ưu tiên tập luyện đòn jab, làm chủ đòn jab, biến nó thành kĩ thuật sở trường của bạn, đặc biệt khi bạn chỉ là người mới. Còn lí do ư? Dễ dàng thôi, xỏ găng vào và lên sàn, bạn sẽ nhận ra ngay – cú Jab là cú đấm an toàn, đáng tin cậy nhất mà bạn có thể tung ra khi chưa chắc đối thủ mình là ai. Và khi nhận ra đó không phải dân tay mơ, bạn sẽ càng cần tới cú Jab.
Hồ Võ


Lược sử võ thuật Việt Nam


Người xưa đã có câu:
Văn quan cầm bút an thiên hạ,
Võ tướng đề đao định thái bình.
Qua hai câu trên, chứng tỏ rằng người xưa chẳng những học văn mà còn chú trọng đến việc rèn luyện võ thuật để chống giặc, dẹp loạn, nhằm mang lại thanh bình cho xứ sở. Nhìn chung vào toàn bộ lịch sử tranh đấu của dân tộc Việt Nam, nền võ học Việt Nam đã đóng một vai trò rất quan trọng, trong vận mạng thịnh suy của đất nước. Bởi vì, những vị anh hùng dân tộc, phần lớn đều xuất thân từ giới võ học, đã tiên phong mang tài thao lược võ dũng và võ trí để góp công vào cuộc lập quốc và kiến quốc. Do đó, để tìm hiểu lịch sử võ học Việt Nam, chúng tôi xin được căn cứ trên bối cảnh lịch sử và thứ tự thời gian, trong bộ “Việt Nam sử lược”, của học giả Trần Trọng Kim làm căn bản, để phân chia lịch sử võ học Việt Nam ra làm bốn thời kỳ chính yếu như sau: Thời thượng cổ, thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ độc lập tự chủ , và thời kỳ cận đại.

I. THỜI THƯỢNG CỔ (2879 – 110 TRƯỚC CN)

Căn cứ vào lịch sử tiến hóa của nhân loại, võ học đã có một nguồn gốc sâu xa trong quá khứ, từ khi con người còn sống trong các hang động, chỉ biết ăn sống thịt thú rừng, cây cỏ, và sự sinh hoạt còn quá phôi thai, rời rạc.Đó là thời tiền sử, theo các nhà khảo cổ học, thời tiền sử được chia ra làm bốn thời kỳ chính: Thời cựu thạch (thời đá đẽo), thời trung thạch (thời đá mài), và thời kim khí.
Trong thời cựu thạch (đá đẽo), khởi đầu vì bản năng sinh tồn, trong cảnh sống chống chọi với thiên nhiên, mà con người đã biết vận dụng sức mạnh lao động của thể xác để tự vệ và tranh đấu với các loại vật sống chung quanh mình. Từ đó, các động tác và các dụng cụ thô sơ dùng làm khí giới, để chiến đấu của thời khai nguyên đã được chớm nở. Mặc dù, trong thời tiền sử con người chưa biết dùng chữ viết để ghi chép lại những biến cố xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, nhưng các nhà khảo cổ cũng đã tìm hiểu được sự sinh hoạt của nhân loại vào thời xa xưa qua những di tích còn để lại.
Riêng tại Việt Nam, những di tích thuộc vào thời cựu thạch (đá đẽo) như các món binh khí: búa, rìu, dao, nạo, dùi, cào,… làm bằng loại đá đẽo đã được các nhà khảo cổ Việt Nam tìm thấy tại các vùng đất Thanh hóa, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, thuộc miền Bắc Việt Nam. Ở hang Thượng Phú thuộc miền Trung Việt Nam, nhà khảo cổ M. Colani đã tìm thấy được những hình ảnh khắc vẽ trên vách đá, giống như một người thợ săn tay đang cầm cây lao để nhắm hướng lên một con chim đang bay lượn trên không trung, trong khi ở bên dưới là hình ảnh của những chiếc đầu có sừng. Ngoài ra, xuyên qua những bức tranh họa trên da thú rừng hoặc được khắc trên những phiến đá được lưu trữ tại các viện bảo tàng Việt Nam, chúng ta còn nhận thấy được hình ảnh của những chiếc thạch côn trong thời đại đá đẽo. Với những di tích vừa kể trên cũng đã nói lên được một phần nào sự liên quan đến khoa chiến đấu của tổ tiên Việt Nam trong thời đó.
Đến thời đại trung thạch (đá mài) con người vẫn nhờ vào võ công của mình để làm phương tiện mưu sinh căn bản cho cá nhân và gia đình, rồi dần dần với đà tiến bộ biết cách trồng trọt, nuôi , con người đã tạo được sự bảo đảm về mặt thực phẩm, rồi sự sinh sản gia tăng, con người mới bắt đầu sống định cư, thành tập đoàn dưới hình thức bộ lạc. Theo quan điểm của các nhà khảo cổ học đã ghi nhận, đây là thời kỳ tân thạch, con người bắt đầu biết sống tập đoàn và có chút ít sống văn minh, tiến bộ lần tới thời đại kim khí.
Theo các sử gia và các nhà khảo cổ học Việt Nam, vào đời vua Hùng Vương chính là thời đại kim khí cực thịnh, tổ tiên người Lạc Việt đạt được một sự tiến bộ lớn lao về phương diện kỹ thuật và mỹ thuật. Tổ tiên Việt Nam đã tìm được các quặng mỏ đồng, sắt, … và biết cách áp dụng phươngpháp luyện kim (những kỹ thuật pha chế thành hợp kim) để sản xuất ra các dụng cụ và binh khí sắt bén như: rìu đồng, trống đồng, đồng côn, thiết côn, dao, búa, cào bằng sắt cho các vị Lạc tướng và binh sĩ dùng để đánh giặc.
Trong những di tích đào được ở các vùng đất núi Việt Nam, người ta nhận thấy có những món binh khí bằng kim loại rất là mỹ thuật như rìu đồng và trống đồng.
Rìu đồng là một dụng cụ để chặt chém, và cũng là một loại binh khí dùng để đánh giặc. Trên những rìu đồng này, phần lớn đều được trạm trổ hình kỷ hà, hoặc là những hình ảnh sinh hoạt của con người thời đó. Những hình vẽ thường là hình ảnh bơi thuyền, nhảy múa, săn bắn , và những động tác đấu võ.
Trống đồng là một loại nhạc cụ dùng để tạo ra những âm thanh hòa tấu trong những buổi lễ, đặc biệt trong thời vua Hùng Vương đã biết dùng trống đồng làm một loại binh khí bằng âm thanh, để khích động tinh thần tướng sĩ, cũng như ra hiệu lệnh cho binh sĩ trong lúc đánh nhau. Loại trống đồng này đã được tìm thấy rất nhiều tại các vùng đất thuộc các tỉnh miền Bắc Việt Nam như Thanh Hóa, Bắc Ninh, Cao Bằng, Hà Nam, Hà Nội, Hòa Bình, Yên Bái, Hải Dương, Nghệ An… Trên mặt trống đồng có trạm vẽ hình ảnh và sự sinh hoạt của thời đó rất là đẹp đẽ. Điều này đã chứng tỏ được tinh thần mỹ thuật của tổ tiên Việt Nam đã bước tiến rất cao xa.
Một di tích khác mà hiện nay còn lưu lại tại tỉnh Phúc Yên (Bắc Việt) đó là thành Cổ Loa, với kiến trúc cổ kính đầy tính cách quân sự, vòng thành xoắn theo hình trôn ốc, với sự bố trí rất thuận lợi cho việc phòng thủ, chống giặc từ bên ngoài. ây cũng là một di tích đã nói lên được một khoa võ học quân sự có tổ chức trong triều đại An Dương Vương (257 – 207 trước CN), với năm mươi năm làm vua, sau khi Thục Phán đã đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 để đổi tiên nước từ Văn Lang thành nước Âu Lạc.

II. THỜI KỲ BẮC THUỘC (207 TRƯỚC CN ĐẾN 939 SAU CN)

Sau khi đánh bại được vua An Dương Vương, Triệu Đà là một vị quan úy ở quận Nam Hải liền sát nhập Nam Hải vào nước Âu Lạc lập thành một nước tự chủ, đặt tên là Nam Việt, làm vua được năm đời. Đến năm 111 trước CN, nhà Hán bên Trung Hoa đánh chiếm nước Nam Việt rồi đổi thành Giao Chỉ Bộ (Giao Châu) đặt quan cai trị như các châu quận của nước Trung Hoa.
Vào năm 40 sau CN, hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị người huyện Yên Lăng, tỉnh Phúc Yên, đầu tiên cầm gươm cưỡi bạch tượng, điều khiển nghĩa quân đánh đuổi quan quân Thái Thú Tô Định, và chiếm được sáu mươi lăm thành trì, rồi hai bà lên làm vua dành quyền độc lập, giải phóng nước nhà ra khỏi ách đô hộ của người Trung Hoa được ba năm. Sự kiện này đã viết lên được một trang võ sử oai hùng cho dân tộc Việt Nam nói chung, và cho nữ giới Việt Nam nói riêng.
Mãi đến năm 248 sau CN, noi gương hai bà Trưng, bà Triệu Ẩu, người huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa cỡi bạch tượng mặc áo giáp vàng, cùng với một ngàn nghĩa quân đứng lên chống với quân Thái Thú Lục Dận, cầm cự một thời gian ngắn, quân của bà chống cự không lại, bà đành tự tử.
Đây là một điểm son thứ hai cho nữ giới trong lịch sử Việt Nam.
Năm 542, Lý Bôn, một vị anh hùng dân tộc đã đứng lên đánh đuổi quân Trung Hoa để làm vua, dựng nên nghiệp nhà Tiền Lý. Đến năm 602, Lý Phật Tử thuộc hậu Lý Nam Đế vì thế yếu nên xin hàng phục vua nhà Tùy. Kể từ đó, Giao Châu lại lệ thuộc nước Trung Hoa lần thứ ba. Mãi cho đến năm 939 sau CN, người Việt mới dành lại được quyền tự chủ.
Vào thế kỷ thứ hai, song song với việc du nhập các tôn giáo Phật, Khổng, Lão và Việt Nam, ngành võ học từ Ấn Độ và Trung Hoa cũng được các vị thiền sư, đạo sĩ mang đến qua hai con đường thủy và đường bộ do hai cách được ghi nhận như sau:
Do các đạo sĩ Trung Hoa sang đất Giao Châu (Bắc Việt Nam) để lánh nạn vì năm 189 sau CN, sau khi vua Hán Linh đế mất, nước Trung Hoa có nhiều loạn lạc. Nhân cơ hội này các vị đạo sĩ đã giới thiệu đạo Khổng và Lão cũng như các phương pháp thể dục dưỡng sinh, thổ nạp chân khí (tức là cách luyện khí). Trong số đó có ngài Mâu Bác (Meou-Po) rất tinh thông tam giáo, về sau ngài phát tâm theo Phật giáo.
Do các vị thiền sư Ấn Độ sang đất Giao Châu (Bắc Việt Nam) để truyền báo đạo Phật, hoặc có một số ghé ngang qua Giao Châu, trước khi sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ ba. Trong số các vị thiền sư Ấn Độ được ghi nhận như Chí Cương Lương (Tche-Kiang Leang), Khương Tăng Hội (K’ang Seng Houei), Ma Ha Kỳ Vực (Marjivaka ha La Jivaka)…
Vào năm 247, vua Ngô Tôn Quyền thấy ngài Khương Tăng Hội thi triển nhiều phép lạ đem lòng tín phục và xây chùa ở thành Kiến Nghiệp (Nam Kinh bây giờ) để ngài tu trì và giảng dạy Phật học. Trong sách “Cao Tăng Truyện” có ghi: “Ông Ma Ha Kỳ Vực gốc ở Ấn Độ, đi du lịch các nước, đến Founan theo đường Giao Châu và Quảng Châu (bắc Việt và Hồng Kông bây giờ), đến nơi nào ngài cũng làm phép lạ. Khi đến Tương Dương, ngài muốn qua đò nhưng người lái đò thấy ngài quần áo rách rưới không cho xuống. Nhưng đến khi đò ngang cập bến, mọi người đều lấy làm lạ vì thấy ngài đã ở bên này sông rồi.” Vào thời kỳ này, mặc dù võ học đã được mang đến do các vị thiền sư, đạo sĩ nhưng vẫn chưa được phổ biến sâu rộng trong dân gian.
Mãi đến năm 580, vị thiền sư Tì Ni a Lưu Chi (Vinitaruci) từ Tây Trúc đã chính thức mang đến Việt Nam ngành đạo thiền tông đầu tiên ở nước Việt Nam, tại chùa Pháp Vân (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), truyền được 19 đời (580 – 1216). Năm 820, vị sư Trung Hoa là ngài Vô Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ (Bắc Ninh) lập nên thiền phái thứ hai, truyền được 14 đời (820 – 1221).
Kể từ đó, các môn võ lâm cổ truyền từ Ấn Độ cũng như các môn Thiếu Lâm Nam và Bắc phái của ngài Bồ Đề Lạt Ma từ Trung Hoa bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam.

III. THỜI KỲ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ (939-1802 SAU CN)

Năm 939, sau khi Ngô Quyền thắng trận Bạch Đằng, đánh đuổi được quân Nam Hán và giết được Thái Tử Hoằng Thao, Ngô Quyền đã thật sự giải phóng cho dân Việt khỏi ách ngàn năm đô hộ của người Trung Hoa, và cũng mở đường cho các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn về sau được tự chủ ở phương Nam.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, lên ngôi vua đạt lại quốc hiệu là Đại Cồ Việt, ngài lo việc tổ chức binh bị và chỉ thị cho binh sĩ tập trận đánh Trường Tiên, mà sau này dân Việt gọi là Trung Bình Tiên hay roi Quang Trường, để áp dụng vào việc chống giặc, giữ gìn bờ cõi. Về binh đội, ngài phân chia ra làm Đạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ. Mỗi Đạo quân có 10 Quân, mỗi Quân có 10 Lữ, mỗi Lữ có 10 Tốt, mỗi Tốt có 10 Ngũ, mỗi Ngũ có 10 người.
Năm 980, vua Lê Đại Hành nhờ vào việc tổ chức binh bị hùng mạnh của nhà Đinh để lại mà đã tạo được nhiều chiến công hiển hách trong việc dẹp nội loạn, cũng như phá được đại quân Tống ở phương Bắc, bình được Chiêm Thành ở phương Nam. Do đó vua Lê đã tạo được thanh thế rất lừng lẫy.
Năm 1010, Lý Công Uẩn tiếp nối nghiệp đế của nhà Lê để sáng lập ra nhà Tiền Lý, truyền ngôi được chín đời. Lý Công Uẩn là vị vua rất giỏi võ thuật, xuất thân từ cửa thiền ngay từ nhỏ đã theo nhà sư Lý Khánh Vân làm con nuôi, được học võ lâm và đạo thiền tại chùa Cổ Pháp. Khi lớn lên nhờ tài văn võ mà được nhà tiền Lê bổ nhiệm chức Quân Tả Thần Vệ Viện Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi lên ngôi, vua Lý Thái Tổ rất trọng đãi giới tu hành, Phật giáo cũng được chọn làm quốc giáo, song song với Thiền tông, nhà vua cũng phát động việc huấn luyện môn võ lâm cổ truyền cho các quan viên, quân sĩ, cũng như các hoàng tử đều phải luyện tập võ lâm ngay từ thuở nhỏ. Khi lớn lên, các hoàng tử đều giỏi võ lâm và cách dùng binh. Muốn được phong vương các hoàng tử đều phải đích thân cầm binh đánh giặc để lập chiến công.
Năm 1054 – 1072, để gia tăng hiệu quả về binh bị, vua Lý Thánh Tông lo việc định quân hiệu, chia phân quân đội ra làm Tả, Hữu, Tiền, Hậu. Tất cả là bốn bộ, hợp lại là một trăm đội, mỗi đội đều có lính kỵ và lính bắn đá còn những phiên binh thì lập ra thành đội riêng biệt, không cho lẫn lộn với nhau. Binh pháp nhà Lý vào lúc bấy giờ có tiếng là giỏi, nhà Tống bên Trung Hoa đã phải tìm hiểu thêm. Điều này cũng làm vẻ vang cho con dân đất Việt.
Năm 1072 – 1127, vua Lý Nhân Tông còn chia võ ban ra làm chín phẩm. Quan đại thần có Thái Sư, Thái Phó, Thái Úy, Thiều Sư, Thiếu Phó, Thiếu Úy. Còn phái dưới có Thống, Nguyên Súy, Tổng Quản Khu mật Sứ, Khu Mật Tả Hữu Sứ, Kim Ngô Thượng Tướng, Đại Tướng,Tướng, Chu vệ Tướng Quân… . Vào thời này, cũng nên kể đến danh tướng Lý Thường Kiệt, một võ tướng tài ba thao lược cũng đã lập được nhiều chiến công rực rỡ trong cuộc dẹp nội loạn, bên ngoài phá Tống bình Chiêm Thành.
Năm 1125 – 1400, tiếp nối nhà Lý các vua nhà Trần chú trọng đến việc chỉnh đốn quân binh. Vua Trần Thái Tông ra luật tổng động viên, tất cả những dân trai tráng đều phải đi lính. Ngài cho mở nhiều “Giảng Võ Đường” để huấn luyện võ lâm cho dân chúng. Nhằm trông nom binh bị tại triều đình, vua đặt ra các chức: Phiêu Kỵ Thượng Tướng Quân, Cẩm Vệ Thượng Tướng Quân, Kim Ngô Đại Tướng Quân, Võ vệ Đại Tướng Quân, Phó ô Tướng Quân,… và ở ngoài, có các chức Kinh Lược Sứ, Phòng Ngự Sử, Thứ Ngự Sử, Quan Sát Sử, ô Hộ, ô Thống, Tổng Quản,… Binh lính được chia thành Quân và ô, mỗi Quân có ba chục ô, mỗi ô có tám chục người được xếp vào Quân và Hộ. Binh lính phải luôn luôn luyện tập võ thuật, sẵn sàng trong tình trạng chiến đấu. Binh lực của nhà Trần lúc này rất hùng mạnh, ba quân tướng sĩ rất là thương yêu lẫn nhau. Vì vậy, đã hơn ba lần thắng được giặc nhà Nguyên, đánh đuổi hơn năm chục vạn quân Mông Cổ ra khỏi bờ cõi vào năm 1284 – 1288, dưới sự lãnh đạo của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, cùng với sự hợp lực của các võ tướng như Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão đã chiến thắng trận Chương Dương .Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão, Hưng Võ Vương Nguyên, Hưng Hiếu Vương Úy cùng với Hưng Đạo Vương đã đánh thắng quân Nguyên tại trận Vạn Kiếp, đến nổi tướng Mông Cổ là Thoát Hoan thua phải bỏ chạy về nước. Trần Khánh Dư cướp lương thực của quân Nguyên tại trận Vân Đồn. Tại trận Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương đại thắng bắt được Ô Mã Nhi và Trần Nhật Duật đã phá quân của Toa Đô ở trận Hàm Tử Quan.
Đây là những chiến công rất hiển hách, vẻ vang nhất trong lịch sử vì với một đế quốc Mông Cổ lớn mạnh nhất vào thời bấy giờ, có một binh lực viễn chinh hùng mạnh, đã từng làm mưa làm gió tại các chiến trường lớn trên thế giới, đã chiến thắng thôn tính được nhiều dân tộc lớn trên thế giới như đã thôn tính được nước Trung Hoa, chiếm được Tây Bá Lợi Á, xâm lăng Trung Âu, uy hiếp được Áo và Đức… Thế mà khi đến bờ cõi Việt Nam, họ phải nếm mùi thật trận hơn ba lần. Hơn ba lần chiến thắng vinh quang của dân tộc Việt đối với kẻ thù số 1 của loài người trong thời đó, đã chứng tỏ được dân tộc Việt là một dân tộc oanh liệt đứng hàng đầu trên thế giới.
Trong lúc chống với giặc Mông Cổ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã soạn ra bộ “Binh Thư Yếu Lược”. Đây là bộ sách tập hợp các phương pháp dùng binh đánh giặc của những danh gia trên thế giới để huấn luyện cho quân sĩ.
Năm 1400, sau khi cướp được ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly lo chỉnh đốn việc binh bị để đề phòng chống với giặc Minh. Hồ Quý Ly bắt dân kê khai hộ tịch rất cẩn thận rồi tuyển dân vào làm lính để gia tăng số binh sĩ, và chia quân đội ra làm bộ binh, và thủy binh. Ngoài ra còn thành lập bốn kho quân trang quân dụng, và tuyển dụng người có kỹ thuật vào làm việc ở xưởng sản xuất binh khí.
Về thủy binh, để đề phòng giữ mặt sông và biển, Hồ Quý Ly cho làm ra những chiến thuyền lớn, ở trên có sàng đi, ở dưới cho người chèo chống, thật là tiện lợi trong việc chiến đấu. Ở các cửa bể và nơi hiểm yếu của các sông lớn, Hồ Quý Ly cho người lấy gỗ đóng cọc để đề phòng quân giặc. Việc quân chế ở Nam và bắc được phân chia ra làm mười hai vệ, Đông và Tây được phân ra làm tám vệ. Mỗi vệ có mười tám đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân có ba chục đội, trung quân có hai chục đội. Mỗi doanh có mười lăm đội, mỗi đoàn có mười đội. Còn những cẩm vệ chỉ có 5 đội và một người đại tướng thống lãnh.
Năm 1418, Bình Định Vương Lê Lợi cùng với các nghĩa sĩ sau nhiều năm gian lao thao luyện đứng lên khởi nghĩa ở đất Lam Sơn. Mãi đến năm 1427, ngài mới đuổi được quân nhà Minh ra khỏi bờ cõi Việt Nam.
Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua, trong các vị có công lao lớn theo giúp vua, đáng kể nhất về quan văn là ông Nguyễn Trãi trong việc tham mưu, về quan võ có đại tướng Lê Vấn và nhà sư Sa Viên trong việc huấn luyện võ dũng cho binh sĩ. Riêng về nhà sư Sa Viên, hiệu là Sơn Nhân người ở tỉnh Sơn La, Bắc Việt, vào năm 1407 ngài theo quy y học đạo tại chùa Huyền Thiên, tỉnh Sơn Đông Trung Hoa. Năm 1415, ngài về nước theo giúp vua Lê Lợi trong việc huấn luyện võ công cho các nghĩa sĩ.
Đến năm 1428, vua Lê Lợi cho mở ra những kỳ thi “Minh Kinh Khoa” bắt buộc các quan văn võ, từ tứ phẩm trở xuống phải dự thi, nghĩa là quan văn phải vào kinh thi sử, quan võ phải thi về võ kinh. Nhà vua còn mở rộng các khóa thi Minh Kinh cho dân chúng, để kén chọn nhân tài, ẩn sĩ ra giúp nước. Nhân vào cơ hội phát động võ thuật của vua Lê, thầy Sa Viên đã thành lập trường huấn luyện võ thuật, đặt tên là “Trường Võ Bình Định” để tưởng nhớ đến công lao của Bình Định Vương Lê Lợi, đã có công đánh đuổi quân Minh mang lại thanh bình cho xứ sở.
Năm 1460, vua Lê Thánh Tông cho mở khoa thi Tiến sĩ đầu tiên. Mỗi ba năm ngài cho mở kỳ thi võ để tưởng thưởng quân sĩ và kén chọn nhân tài võ dũng. Vào thời bấy giờ, nhiều võ sinh của trường võ Bình Định đã được trúng tuyển, cho nên danh từ võ phái Bình Định đã được dân chúng biết nhiều đến kể từ đó. Về binh bị, vua Lê Thánh Tông còn chỉ thị cho các quan Tổng Binh phải chăm lo giảng tập trận đồ, thao luyện binh sĩ. Ngài cho đổi lại năm vệ thành năm Phủ: Trung Quân Phủ, Nam Quân Phủ, Bắc Quân Phủ, Đông Quân Phủ, Tây Quân Phủ. Mỗi phủ có sáu vệ, mỗi vệ có năm hay sáu sở, mỗi sở có bốn trăm người. Quân sĩ của năm phủ có khoảng sáu hoặc bảy vạn người. Ngài còn đặt ra ba mươi mốt điều quân lệnh để tập thủy trận, bốn mươi hai điều để tập bộ trận. Năm 1679, vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh, ở miền Nam nền võ học Việt Nam còn chịu ảnh hưởng vào các võ phái của người Trung Hoa như Thiếu Lâm Nam và Bắc phái, Võ Đang, Nga Mi, Không Động, Bạch Hạc, Bát Quái Chưởng,… xuyên qua các quan binh của nhà Minh bất phục tùng Thanh Triều đến khai hoang lập ấp, định cư rãi rác trên các vùng đất cận Nam. Do đó, về sau người ta còn được nghe nhắc đến những danh từ như Võ Tiều, Võ Hẹ, Võ Quảng, Võ Hải Nam, Võ Phúc Kiến,… (để chỉ các môn võ do các người Trung Hoa, gốc thuộc các địa phương khác nhau). Đến đây, chúng tôi xin nhắc lại một quan điểm chính trị của chúa Nguyễn Hiền Vương, với ý định mở mang bờ cõi về miền Nam, cho nên chúa Nguyễn đã cho phép các tướng lãnh cùng hơn ba ngàn binh sĩ nhà Minh bất phục tùng Thanh Triều đến tỵ nạn, và tiện dịp, dùng họ để khai hoang, lập ấp tại các vùng đất cận Nam, rồi dần dần xâm chiếm các vùng đất của người Chân Lạp.
Về sau những vùng đất khai hoang, lập ấp này đã tạo nên những thành phố dân cư trù phú, sự thịnh vượng đáng kể nhất là việc sản xuất lúa gạo đã tạo nên một nền kinh tế lớn mạnh ở miền Nam. Nền kinh tế này đã giúp ích rất nhiều cho chúa Nguyễn trong công cuộc thống nhất sơn hà. Trong các tướng lãnh nhà minh đến khai hoang định cư, đáng kể nhất là tướng Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Lịch. Vào năm 1679, Trần Thắng Tài đã khai hoang tại Biên Hòa và dọc theo các vùng đất thuộc đồng bằng sông Đồng Nai. Còn Dương Ngạn Lịch lập ấp tại Mỹ Tho, và các vùng đất thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1680, Mạc Cửu định cư tại Hà Tiên và vùng đất dọc theo vịnh Xiêm La (Thái Lan), Rạch Giá, Cà Mau.
Năm 1706, vào đời vua Lê Dụ Tông, ở miền Bắc chúa Trịnh Cương cho mở trường huấn võ, đặt quan giáo thụ để dạy cho con cháu các quan võ về môn võ kinh chiến lược. Cứ mỗi tháng một lần tiểu tập. Ba tháng một lần đại tập. Mùa xuân và mùa thu thì tập võ. Mùa đông và mùa hạ thì thập võ kinh (là binh thư chiến lược và chiến thuật, áp dụng những phương pháp dùng binh đánh giặc). Kể từ đó mà danh từ võ kinh mới được phổ thông trong quần chúng. Mỗi năm có một kỳ thi võ. Để tham dự vào kỳ thi võ, thí sinh lần lượt phải qua các bộ môn như bắn cung, múa giáo, múa gươm, bắn cung trong lúc phi ngựa, và bắn cung trong lúc chạy bộ. Sau cùng, thí sinh phải qua kỳ thi vấn đáp về nghĩa lý trong sách vỡ thánh hiền để xét về học lực và những phương lược trong sách võ kinh để xét về tài năng.
Năm 1740, Trịnh Doanh cho lập võ miếu ở chánh vị có bàn thờ Vũ Vương, Khương Thái Công, Tôn Võ Tử, Quan Tư,… Ở phía sau có bàn thờ Trần Hưng Đạo, và lập miếu riêng thờ Quan Công. Mỗi năm vào mùa xuân và thu, vua cho mở cuộc tế lễ tại võ miếu.


IV. THỜI KỲ CẬN ĐẠI (1802 – 1975)

Năm 1802, vua Gia Long thống nhất sơn hà vẫn theo gương xưa của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1631). Nhà vua cho thành lập xưởng súng đại bác, mở trường bắn huấn luyện voi, ngựa và trường huấn luyện võ kinh, võ lâm cho binh sĩ. Ở những nơi hiểm yếu, vua chỉ thị cho lập đồn ải. Tại các cửa bể và đảo, vua cho lập ra pháo đài. Ngoài ra, vua còn cho lập ra xưởng đóng tàu đồng, và huấn luyện thủy quân để đề phòng mặt biển.
Năm 1820, vua Minh Mạng đã chia binh đội ra thành bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh và pháo binh. Bộ binh gồm có kinh binh và cơ binh.
vo co truyen1 300x139 Lược sử võ thuật Việt Nam   Phần 2
Kinh binh chia làm doanh, vệ, đội. Kinh binh dùng để đóng giữ ở kinh thành hoặc để sai phái đóng giữ ở các tỉnh. Mỗi doanh có năm vệ, mỗi vệ có mười đội, mỗi đội có năm chục người. Mỗi đội có suất đội và đội trưởng cai quản. Những binh khí của mỗi vệ gồm có hai khẩu súng thần công, hai trăm khẩu súng điểu thương và hai mươi mốt ngọn cờ. Còn cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng được chia ra làm cơ, đội. Cơ thì có quân cơ, đội thì có cơ suất đội cai quản.
Tượng quân được chia ra thành từng đội, mỗi đội có bốn chục con voi. Số voi ở kinh thành gồm có một trăm năm chục con. Ở Bắc thành có một trăm mười con. Ở Gia Định thành có bảy mươi lăm con. Ở Quảng Nam có ba mươi lăm con. Bình Định có ba chục con. Nghệ An có hai mươi mốt con. Tại Quảng Bình, Quảng Ngãi, Thanh Hóa, mỗi nơi đều có mười lăm con. Còn ở Quảng Trị, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Bình mỗi nơi có bảy con.
Thủy quân có mười lăm vệ được chia làm ba doanh, mỗi doanh đều có quan chưởng vệ quân lính, và quan đô thống chỉ huy cả ba doanh.
Ngoài ra, vua Minh Mạng còn cho thành lập ra trường Anh Doanh và Giáo Dưỡng Binh để cho các con của quan võ, từ suất đội trở lên ai muốn tình nguyện vào học sẽ được hưởng lương bổng. Việc huấn luyện võ lâm và võ kinh do một viên quan đại thần chăm sóc. Để bổ dụng vào ngành võ học, vua còn cho mở ra các khóa thi võ lâm, tuyển chọn người đậu tú tài, cử nhân và tiến sĩ võ khoa. Người dự thi võ khoa đều phải biết chữ nghĩa, vì sau khi thi xong các bộ môn của võ lâm, thí sinh còn phải dự thi phần võ kinh, để chứng tỏ khả năng trong cách dùng binh pháp đánh giặc mà trong sách võ kinh đã ấn định.
Năm 1837, vào thời Minh Mạng thứ 18 vua còn định phép cho các kỳ thi võ lâm như sau:

KHÓA THI HƯƠNG: Trường thứ nhất thi cử tạ, trường thứ hai thi diễn roi côn (trúc mộc), diễn quyền, múa đoản kiểm . Trường thứ ba thi về bắn súng điểu thương (loại súng thời xưa). Nếu thí sinh trúng tuyển cả ba trường, được chấm đậu cử nhân võ khoa. Nếu thí sinh chỉ trúng tuyển ở trường thứ nhất và trường thứ hai, được chấm đậu tú tài võ khoa. Sau đó, để sắp hạng cao thấp, các võ tú, võ cử còn phải dự thi vấn đáp để trả lời những cẩu hỏi có liên quan đến sách võ kinh và sách Tử Tư. Nếu ai trả lời thông suốt, tên được sắp hạng đứng trước.

KHÓA THI HỘI: Cũng như khóa thi Hương, thi Hội gồm có ba trường. Nhưng ở phần diễn côn roi, thí sinh phải dùng đến côn roi bằng sắt (thiết côn). Thí sinh nào trúng tuyển cả ba trường và giỏi thông chữ nghĩa sẽ được vào kỳ thi đình.

KHÓA THI ĐÌNH: Sau khi được tuyển chọn ở kỳ thi Hội, thí sinh được vào dự khóa thi Đình để làm một bài văn sách, trả lời những câu hỏi về nghĩa lý trong bộ sách võ kinh, sách Tử Tư, và những binh pháp chính yếu của các danh tướng thời xưa. Những thí sinh được trúng tuyển ở kỳ thi Đình được chấm đậu tiến sĩ võ khoa. Nếu thí sinh chỉ được trúng tuyển kỳ thi Hội mà không đậu ở kỳ thi ình được chấm đậu phó bảng võ khoa.

Trong thời Pháp thuộc, người Pháp đã gặp phải những sự chống cự oanh liệt của người dân Việt, phần lớn các tổ chức kháng chiến chống Pháp, bắt nguồn từ các nhà lãnh đạo võ thuật. Do đó, để vô hiệu hóa phần nào sức kháng cự của người Việt, chính quyền Pháp đã ra lệnh nghiêm cấm các hoạt động võ thuật trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, với tinh thần ái quốc và bất khuất của người Việt, các vị võ cử, võ gia Việt Nam vẫn âm thầm lén lút dạy võ cho các thanh thiếu niên để nung đúc tinh thần quật khởi, kháng chiến chống Pháp. Mặc dù với khí giới thô sơ, tầm vong chuốt nhọn, gươm giáo không thể trực diện đối đầu với các súng đạn tối tân của người Pháp nhưng người Việt đã dùng phương pháp du kích, nhiều phen khiến cho chính quyền Pháp kinh hoàng và đã giết được các tướng tài Pháp như tướng Francis Garnier và tướng Henri Riviere tại Ô Cầu Giấy, Hà Nội (Bắc Việt).
Trong các vị lãnh đạo chống Pháp, quân Pháp đặc biệt chú ý đến các ông như Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Lê Trực, Hoàng Hoa Thám…
Năm 1862 – 1864 Ông Trương Công Định kháng chiến ở Gò Công và Biên Hòa.
Năm 1875 ông Nguyễn Hửu Huân (Thủ khoa Huân) nổi lên ở Mỹ Tho và Tân An.
Vào tháng 8/1864 ông Trương Huệ (con ông Trương Công Định) nổi lên ở Tây Ninh.
Vào 8/1917 ông Lương Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn nổi lên ở nhà lao Thái Nguyên.
Năm 1927 hai ông Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng nổi lên chống Pháp ở Yên Bái
Năm 1885, ông Quản Hán Nguyễn Văn Bường khởi binh ở Bà Điểm Hốc Môn, Bà Trà, Tân Khánh. Trận đánh nổi tiếng nhất là ở Mười Tám Thôn Vườn Trầu (gọi là Thập Bát Phù Viên) trong đó nghĩa binh bị vây đánh, sau cùng còn lại bảy chục người cùng nhau thề đánh cho đến chết. Và họ đã giữ vững lời thề. Từ trận đánh Pháp nổi tiếng này về sau, danh từ “võ vườn” đã được lưu truyền để nói lên tinh thần võ dũng của địa phương này. Nếu muốn nói “võ vườn” là một môn phái võ thuật người ta cũng không thấy được một tài liệu sách vở nào để chứng minh về nguồn gốc, kỹ thuật căn bản của nó, mà chỉ được nghe nhắc qua lời truyền miệng của các dân địa phương. Có lẽ, đây chỉ là một số đòn thế chiến đấu tự vệ của dân địa phương được ảnh hưởng bởi võ thuật Trung Hoa, bắt nguồn từ năm 1679, tướng Trần Thắng Tài và hơn ba ngàn binh sĩ nhà Minh, bất phục tùng Thanh triều, đã được chúa Nguyễn Hiền Vương cho phép tỵ nạn, khai hoang, lập ấn định cư dọc theo đồng bằng sông Đồng Nai (Biên Hòa, Hốc Môn). Để chứng minh cho luận cứ trên, chúng tôi còn ghi nhận qua lịch sử bởi chiến tích võ dũng của mười tám thôn vườn trầu vào năm 1782. Tại đây, quan binh Tây Sơn Nguyễn Nhạc đã bị đánh bại, do sự phục kích của đạo binh Hòa Nghĩa (người Trung Hoa cư ngụ tại 18 thôn Vườn Trầu, theo giúp Nguyễn Ánh).
Vào năm 1911, ngài Mộc Đức Thiền Sư, một trong nhưng vị cố vấn cho Tôn Dật Tiên đã thu nhận bốn đồ đệ người Việt Nam như Trần Tần Chân Nhân, Thiện Tảo Đạo Nhân, Tư Hớn Cư Sĩ, và Thiện Tâm Thiền Sư. Về sau bốn vị này góp công lớn vào việc phát triển ngành thiền tông và võ lâm tại Việt Nam. Riêng về Thiện Tâm Thiền Sư, tên thật là Nguyễn Văn Sáu, hiệu Đoàn Tâm Ảnh, sinh năm 1900 tại Bạc Liêu, Nam Việt Nam. Sau mười tám năm được theo thầy Mộc Đức Thiền Sư để học võ lâm và thiền tông tại chùa Phi Lai Tự, miền Bắc Trung Hoa, ông trở về Việt Nam vào năm 1930 mở trường dạy võ thâu nhận môn đồ. Đồng thời, ông cùng một số nghĩa sĩ âm thầm thành lập đảng Sao Trắng để chống Pháp. Đảng Sao Trắng với tinh thần nghĩa hiệp giúp đỡ dân lành, đã làm cho những tay cường hào ác bá và chính quyền Pháp phải nhiều phen bối rối, tại miền lục tỉnh Hậu Giang, Nam Việt Nam. Năm 1960, để hưởng ứng phong trào thanh niên võ thuật, ông đã chính thức thành lập Hội Võ Lâm Việt Nam và sau đó thu nhận được bốn vị đệ tử tâm đắc như Giáo Sư Vũ Đức, Giáo sư Hùng Phong, Giáo Sư Hàng Thanh, và Giáo sư Nguyễn Thiên Tài. Mãi đến năm 1970, ông lui về ẩn dật chức vụ Chưởng Môn Phái Võ Lâm Việt Nam đã được ông chính thức truyền lại cho Giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền) để tiếp tục công việc phát triển môn phái. Về sau, để tìm nguồn an lạc nơi chốn thiền, Thiện Tâm Thiền Sư đã trụ trì tại chùa Pháp Hoa, Sài Gòn.
Ngoài ra, một số các vị võ sư Việt Nam lão thành nổi danh như Thầy Võ Dựt (1870 – 1958), hiệu là Nam Nghĩa, người làng An Dinh quận Bình Khê. Thầy Hồ Nhu (1890 – ?) hiệu Hồ Ngạnh người làng Thượng Truyền, quận Bình Khê giỏi về côn pháp. Thầy Toàn Phong và Thầy Tàu Sáu ở quận Bình Khê giỏi về quyền cước. Thầy Triệu Thúc Lang ở quận Dương Đông đảo Phú Quốc. Thầy cử nhân Trương Thạch (1880 – ?) ở Bình Định. Thầy cử nhân Đinh Các (1880 – 196?) người Qui Nhơn. Thầy Năm Soai (1880 – 197?) người Bạc Liêụ Thầy Sáu Khá (1885 – 196?) và các thầy Tư Công, Hai Sình đều ở Bạc Liêu Võ sư Huỳnh Kim Hên (1905 – 1980) hiệu là MãT hanh Long người ở Bạc Liêu về sau cư ngụ tại Hòa Hưng, Sài Gòn. Thầy Hàn Bái sáng tổ hệ phái Hàn Bái. Thầy Vũ Bá Oai (1901 – 28/1/2001) kế nghiệp thầy Hàn Bái thành lập võ đường Hàn Bái tại Sài Gòn. Thầy Trương Thanh Đăng (1895 – 197?) hiệu Sa Long Cương người tỉnh Phan Thiết, về sau cư ngụ tại Sài Gòn. Thầy Hồ Hợi (1896 – ?) sáng lập Hội Cửu Long Võ đạo tại Sài Gòn. Thầy Bảy Nếp người quận Cần Đước, Nam Việt Nam về sau là cư sĩ tại tỉnh Gia Định.
Trong thời Pháp thuộc, môn quyền anh được du nhập với kỹ thuật tay nghề đấm giản tiện và rất được sự ngưỡng mộ của quần chúng người Việt. Vào giữa thập niên 1960 – 1970, các võ sư huấn luyện quyền anh đáng kể như Minh Cảnh, Huỳnh Tiền, Kidemsey, Trần Mộng Lân, Nguyễn Sơn, Lý Huỳnh, Minh Thành, … Bộ môn quyền anh được hoạt động dưới sự chăm sóc của Tổng Cục Quyền Thuật Việt Nam.
Tổng cục này đã được thành lập vào năm 1956 tại Sài Gòn do sự góp mặt của các võ sư và võ sĩ thuộc nhiều môn phái võ thuật Việt Nam khác nhau.
Ngoài ra vào năm 1960, các vị võ sư còn thành lập Tổng Hội Nghiên Cứu Võ Học Việt Nam với ước vọng để khảo cứu các ngành võ thuật Việt Nam. Trong suốt 15 năm (1960 – 1975) thành hình, tổng hội này không có một biểu hiện nào đáng được ghi nhận. Phần lớn nổ lực hoạt động võ thuật Việt Nam trong quảng đại quần chúng đều do công trình của Tổng Cục Quyền Thuật Việt Nam đẩy mạnh, dưới sự yểm trợ của chính quyền thanh niên. Mặc dù có rất nhiều võ phái Việt Nam hoạt động song song với Tổng Cục Quyền Thuật Việt Nam, nhưng chỉ có vài võ phái đạt được sự tổ chức một hệ thống võ đường qui cũ, thu hút được nhiều võ sinh trên toàn quốc như Hội Võ Thuật Vovinam, do Võ Sư Nguyễn Lộc sáng lập, về sau võ sư Lê Sáng kế nghiệp; hội Võ Lâm Việt Nam do lão sư Đoàn Tâm Ảnh (pháp danh Thiện Tâm Thiền Sư) sáng lập, về sau giáo sư Vũ Đức kế nghiệp; Hội Cửu Long Võ đạo do võ sư Hồ Hợi sáng lập,…
Năm 1945, sau khi quân đội Nhật Bản thắng Pháp tại Việt Nam, cũng như tinh thần võ sĩ đạo Nhật vang danh khắp thế giới, môn võ Nhật nổi danh lúc bấy giờ là môn Nhu đạo (Judo) và Nhu Thuật (Jiu-Jittsu) rất được người Việt Nam hâm mộ. Vị võ sư người Nhật đầu tiên đến giảng dạy Nhu đạo tại Việt Nam là võ sư Yonka, về sau lại có các võ sư Watanabe, võ sư Ishikawa.
Năm 1948, giáo sư Hồ Cẩm Ngạc trở về nước sau 5 năm du học tại Nhật Bản. Giáo sư Hồ Cẩm Ngạc là người Việt Nam đầu tiên đã tốt nghiệp môn Nhu đạo tại trường Đại học Nhu đạo Kodokan, Nhật Bản. Ngoài ra ông còn tốt nghiệp các bộ môn võ Nhật khác như Karatedo (Không thủ đạo) thuộc trường phái Yosheikan. Vào năm 1956, giáo sư Hồ Cẩm Ngạc đã xuất bản quyển Nhu đạo Tạp Phương. Vào năm 1955, Giáo sư Phạm Lợi từ Pháp về Việt Nam và đã xuất bản quyển Kỹ Thuật Nhu đạo vào năm 1956. Ngoài ra còn có một số giáo sư Nhu đạo đáng kể như giáo sư Đặng Thông Trị, giáo sư Phan Văn Quan, giáo sư Thái Thúc Thuần, giáo sư Vương Quang Ba, thượng tọa Thích Tâm Giác. Những vị giáo sư Nhu đạo vừa kể trên đều là những vị đã góp công thành lập Tổng Cục Nhu đạo Việt Nam vào năm 1956. Riêng giáo sư Đặng Thông Trị ngoài môn Nhu đạo, ông còn làm giaó sư Aikido đầu tiên đẩy mạnh phong trào Hiệp Khí Đạo tại Việt Nam. Vào năm 1964 bào đệ của giáo sư Trị là giáo sư Tăng Thông Phong thành lập Tổng Cục Hiệp Khí Đạo Việt Nam.
Vào năm 1960 quân đội viễn chinh Đại Hàn đến tham chiến tại Việt Nam, môn võ Đại Hàn Taekwondo (Thái Cực Đạo) do tướng Choi Hong Hi lãnh đạo đã được chính quyền quân đội VNCH yểm trợ phát động môn võ này trong quảng đại quần chúng. Sau đó Tổng Cuộc Thái Cực Đạo Việt Nam được ra đời do Trung Tá Phạm Văn Cư làm chủ tịch sáng lập. Đến niên khóa 1973 – 1975, đại tá Trần Thanh Điền kế nhiệm chức chủ tịch Tổng Cuộc Thái Cực Đạo Việt Nam. Môn võ Thái Cực Đạo đã lớn mạnh tại Việt Nam trong cao trào thanh niên khỏe với nhiều võ phái trăm hoa đua nở.
Căn cứ vào lịch sử tranh đấu Việt Nam, võ học cổ truyền Việt Nam là một nền tảng căn bản cho quân sự quốc phòng. Do đó, võ học đã đóng một vai trò rất quan trọng trong vận mạng thịnh suy của đất nước. Kể từ thượng cổ thời đại, vào đời vua Hùng Vương lập quốc, mặc dù con người chưa biết dùng chữ viết để ghi chép lại sự diễn tiến của võ học nhưng nhờ vào một số di tích của các món binh khí như búa, rìu, dao, dùi, cào, trống đồng và một số tranh ảnh chiến đấu được khắc vẽ trên những phiến đá tại các vùng đất thuộc Bắc Việt Nam, được tìm thấy bởi các nhà khảo cổ đã nói lên được phần nào khoa võ học lập quốc của tổ tiên người Việt Nam.Với vốn liếng căn bản khoa võ học lập quốc đầu tiền, sau đó trong các dịp giao tiếp với lân bang, người Việt đã biết khôn khéo thái nạp cái hay của người để biến chế và đồng hóa và sắc thái riêng biệt của mình. Điển hình là sự ảnh hưởng ở nền võ học Trung Hoa và Ấn Độ xuyên qua các nhà truyền giáo, hoặc các quần binh người Trung Hoa trong thời kỳ một ngàn năm Bắc thuộc. Để rồi sau đó nền võ học kiến quốc được phát huy trong các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn…Mãi đến thế kỷ 17, người Âu Châu đến buôn bán và truyền đạo Thiên Chúa tại Việt Nam, và đến thế kỷ 19, cuộc tranh chấp bằng võ lực giữa Việt Nam và Pháp bùng nổ, nền võ học kiến quốc của Việt Nam đã bị vô hiệu hóa trước đạn súng ống tối tân của Pháp. Sau đó, Việt Nam phải chịu đựng hơn tám mươi năm lệ thuộc người Pháp. Trong thời gian tiếp xúc với người Âu Châu, người Việt đã hiểu được rằng sự tiến hóa của nhân loại trên thế giới hiện nay đã bước qua một kỷ nguyên tiến bộ mới trên nhiều phương diện.Cũng như võ học cổ truyền với gươm giáo làm căn bản, không còn là một yếu tố chính yếu thích nghi cho quân sự quốc phòng nữa, mà đã được thay thế bằng những đạn dược, súng ống tối tân hiên đại hóa quân sự với những kỹ thuật chiến tranh máy móc. Kể từ đó, nền võ học kiến quốc của Việt Nam không còn đóng một vai trò chính yếu quân sự trong lịch sử mà đã biến thể trở thành một bộ môn thể thao tự vệ cũng như các bộ môn thể thao thuần túy khác, nhằm mục đích phụng sự cho phong trào khỏe của nước nhà, thêm phần phong phú.

Theo Trung Sơn Võ Đạo Việt Nam

Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2015

Võ thuật Việt Nam và các hệ phái vang danh


Nhạc võ Tây Sơn. (nguồn vntime.vn)
Hà Nội và vùng phụ cận được xem là cái nôi của võ cổ truyền. Trước đây nhiều võ sinh khu vực này đã vượt qua nhiều cuộc khảo thí võ rất gian nan do triều đình phong kiến tổ chức tại Giảng Võ đường. Sau năm 1880 khi các kỳ thi võ bị triều đình bãi bỏ, nhiều võ gia vẫn tiếp tục bí truyền các kỹ năng lại cho con cháu.

Võ học trỗi dậy theo hoàn cảnh lịch sử

Thời Pháp thuộc nối tiếp nhà Nguyễn, tuy có cải tổ chính sách giáo dục, nhưng lại hướng học chế Việt Nam sang ngành học thư lại và chính sách văn hóa ngu dân. Võ học suốt trong thời kỳ này (tới năm 1938) chỉ gồm một số hoạt động võ thuật rời rạc, lẻ tẻ, dù có những xu hướng Cần Vương Văn Thân chú trọng tới võ học trong việc chống Pháp.

Võ sư, NSND Lý Huỳnh – một trong “tứ tú” của võ thuật miền Nam từng thách đấu với ngôi sao võ thuật Lý Tiểu Long năm 1970. (nguồn tinngan.vn)
Loại võ học ra khỏi chính sách giáo dục, người Pháp cũng đương nhiên loại bỏ võ học ra khỏi tổ chức quân đội. Chương trình thí võ trong quân đội đương nhiên được thay thế bằng chương trình huấn luyện vũ khí, tác xạ và kỹ thuật tác chiến. Võ học Việt Nam trong thời kỳ này, gần như chỉ còn được coi là một ngành thể thao có tác dụng giải trí công cộng theo quan niệm đơn giản về thể thao của người Pháp.
Mãi tới cuối thập niên 30, võ học Việt Nam mới có cơ hội bùng lên, bởi tính tự cường dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ sau những thất bại của những phong trào kháng Pháp của Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng… hay các cuộc nổi dậy của Đội Cấn, Đội Cung trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Sau sự ra mắt của môn phái Vovinam vào năm 1938 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, một phong trào học "Võ Tự Vệ" và "Vovinam của người Việt Nam" được thổi bùng lên trong giới thanh niên, sinh viên, học sinh, viên chức tại miền Bắc, khích lệ thêm cả những dịch vụ du nhập võ học ngoại quốc vào Việt Nam, đặc biệt là môn Nhu Thuật (JuJitsu) và võ Thiếu Lâm. Sau 1945, Nhu Đạo (Judo) được du nhập Việt Nam, cùng với môn Yoga (Du Già).

Các hệ phái chính

Các hệ phái võ thuật cổ truyền ở Việt Nam đa dạng nhưng có thể xếp vào 5 nhóm chính: Nhóm Bắc Hà (miền Bắc), nhóm Bình Định (miền Trung), nhóm Nam Bộ (miền Nam), các môn phái có nguồn gốc từ Trung Quốc đến Việt Nam (như các hệ phái danh gia Thiếu Lâm) và ngoài ra, còn có thể kể đến các võ phái Việt Nam phát triển ở nước ngoài.
Nhóm Bắc Hà: Các phái võ Bắc Hà ban đầu đều phát triển ở miền Bắc Việt Nam dù có võ phái sau đó đã ảnh hưởng lan rộng đến các khu vực khác trong cả nước. Các phái này bao gồm:


· Vật Liễu Đôi: Võ vật có truyền thống lâu đời và rất phổ biến tại miền Bắc Việt Nam. Nhiều làng tổ chức thi đấu vật vào các lễ hội mùa xuân. Lễ hội Vật Liễu Đôi tổ chức thường niên ở làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, Hà Nam.
· Nhất Nam: có lịch sử lâu đời nhất trong các võ phái cổ truyền Việt Nam, có khởi nguồn từ Thanh Hóa, Nghệ An. Ông tổ của môn vật truyền thống Việt Nam, Nguyễn Tam Chinh, sinh ra tại vùng này.

Môn sinh võ phái Nam Hồng Sơn (tại Long Biên, Hà Nội) biểu diễn nằm trên bàn đinh cho xe máy cán qua người. (nguồn CAND.com)
Nam Hồng Sơn: Do võ sư Nguyễn Văn Tộ sáng lập dựa trên cơ sở chương trình rèn luyện võ cổ truyền dân tộc từ thời Nguyễn và vay mượn thêm một số kỹ thuật của võ Trung Hoa.


· Việt Võ đạo (Vovinam): Vovinam - Việt Võ Đạo là môn võ được võ sư Nguyễn Lộc sáng lập vào năm 1938. Đây là hệ thống pha trộn võ học gia đình, võ Việt Nam và các trường phái võ các nước khác như Judo, Karate... Võ phái dựa trên kỹ thuật phản công ngang, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Nhóm Bình Định: Bình Định là vùng từng thuộc vương quốc Chămpa, nơi có truyền thống võ thuật lâu đời mà những phù điêu của vương quốc Chăm còn lưu giữ hình ảnh. Đây cũng là cái nôi võ thuật miền Trung gắn liền với triều đại Tây Sơn (1778-1802).
Một số nguồn sử liệu cho rằng, sau cuộc khởi nghĩa thành công, Lê Lợi đặc biệt lưu tâm đến việc trui rèn võ nghệ cho quân đội nên cho mở các kỳ thi võ và mở trường dạy võ. Nhà vua ủy thác cho nhà sư Sa Viên là người huấn luyện võ nghệ cho nghĩa binh Lam Sơn từ năm 1415 mở võ đường. Nguyễn Trãi đã đặt tên cho võ đường của nhà sư Sa Viên là Võ đường Bình Định để tưởng nhớ công lao của Bình Định Vương Lê Lợi. Từ đó tên Võ Bình Định được truyền nối khắp nước.
Trong thế kỷ XVIII, một số võ sư nổi tiếng từ miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc chuyển đến định cư tại vùng này và dạy võ cho người dân địa phương. Trong số này có Trương Văn Hiến (vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh), Trần Kim Hùng (có tổ tiên sáng lập thôn Trường Đình, Tây Sơn), Diệp Kim Tòng (từ Phúc Kiến, Trung Quốc), Đinh Văn Nhưng (người Ninh Bình). Những võ sư này đã rèn luyện võ nghệ cho anh em nhà Tây Sơn và hầu hết các tướng sĩ của cuộc khởi nghĩa.
Từ cuối thế kỷ XVIII các võ sư đã gây dựng tại Bình Định phái võ Tây Sơn (còn gọi là Võ trận Tây Sơn) độc đáo, kết hợp của nhiều hình thức và kỹ thuật từ những võ phái Bình Định khác nhau. Nguyên tắc của võ phái này là: "Nhất mạnh, nhì nhanh, thứ ba giỏi", nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sức mạnh, sự khéo léo, và kỹ thuật có uy lực thực dụng. Tuy nhiên, cùng với sự suy vi của dòng họ Tây Sơn, nhiều kỹ thuật của phái võ trận này chỉ còn được truyền dạy trong các chi phái võ của các gia tộc tại Bình Định.
Từ thời Tây Sơn đến nay, nhóm Bình Định bao gồm nhiều võ phái xuất phát từ Bình Định và vùng phụ cận như: Roi Thuận Truyền, quyền An Thái, quyền An Vinh và các hình thức võ thuật do các gia tộc, các nhà sư truyền dạy như Tây Sơn Nhạn, Thanh Long võ đạo, Bình Định Sa Long Cương, Võ trận Bình Định, Tân Sơn Bạch Long, Tây Sơn Thiếu Lâm, Bình Định gia, Tiên Long Quyền Đạo...
Nhiều bài danh quyền có xuất xứ từ đất Bình Định như Ngọc trản ngân đài, Lão mai quyền, Thần đồng quyền, Yến phi quyền (còn được gọi là Én bay thảo pháp) đã được đưa vào chương trình khảo thí võ thuật thời Nguyễn và một số bài trở thành bài quy định của Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam sau này.
Nhóm Nam Bộ: Các phái võ Nam Bộ xuất hiện cùng với quá trình mở cõi và định cư của người Việt trong thế kỷ 18 và thế kỷ 19. Sau khi dứng chân ở Nam Trung Bộ, các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam và di dân từ Quảng Nam, Đà Nẵng, Quy Nhơn vào khai khẩn đất hoang tại đồng bằng sông Cửu Long.
Song song với điều đó, triều Nguyễn cũng lưu đày nhiều tội phạm vào Nam. Vì vậy, nhiều người Việt ở miền Nam xuất thân từ các vùng có truyền thống võ nghệ, lại giành giật sự sống trong cuộc chiến sinh tử với vùng quê mới còn hoang dã, nên hầu hết trong số họ rất thành thạo nghệ thuật chiến đấu.
Từ cuối thế kỷ 18, bị bại trận trước quân khởi nghĩa Tây Sơn, tàn quân nhà Nguyễn bỏ chạy xuống phía Nam quy tụ về Đồng Nai tiếp tục tuyển mộ các võ sư để rèn binh luyện võ. Sau khi nhà Nguyễn được thành lập năm 1802, nhiều người vùng này đã vượt qua các kỳ thi võ của triều đình, theo đuổi binh nghiệp và trở thành nhiều võ tướng tên tuổi.
Một số hoàng thân quốc thích nhà Tây Sơn, để trốn tránh sự truy nã trả thù của vua Gia Long, cũng lưu lạc tới miền Nam, mang theo sở học của bản thân và âm thầm truyền dạy trong các gia tộc, hình thành nên nhiều võ phái nổi tiếng.
Xuất thân đa dạng của người Việt trong miền Nam đã tạo nên những hệ thống võ thuật Nam Bộ có nguồn gốc rất phong phú pha trộn từ các nhóm Bình Định, Thanh Hóa, Nghệ An, đồng bằng sông Hồng và cả những võ phái có xuất xứ từ Trung Quốc (như võ Thiếu Lâm), võ thuật của dân tộc Chăm, võ Cao Miên (Campuchia).
Sự pha trộn nhiều môn loại với kỹ thuật được cải biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể ở miền Nam trong đó có nhu cầu tự vệ trước thú dữ và khai khẩn đất canh tác mới, đã tạo nên phái Nam Bộ đặc biệt với những võ phái được gọi là "võ miệt rừng" hay "võ miệt vườn" nổi danh như Tân Khánh Bà Trà, Thất Sơn quyền của các nhà sư tại vùng Thất Sơn (An Giang), Âm dương võ phái và phái Kim Kê.
Nhiều võ sư ở miền Nam nổi danh được ví với "tam nhật" (ba mặt trời) là Hàn Bái, Bá Cát và Bảy Mùa; "tam nguyệt" (ba mặt trăng) Trương Thanh Đăng, Quách Văn Kế và Vũ Bá Oai; "tứ tú" (bốn vì sao) với Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh (Võ sư- diễn viên điện ảnh-Nghệ sĩ nhân dân Lý Huỳnh).
Nhiều võ sĩ miền Nam đã tham gia thượng đài với rất nhiều lần toàn thắng trước các võ sư đến từ những quốc gia lân bang như Cao Miên, Lào, Xiêm. Trước năm 1975, ở miền Nam cũng đã có Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam của Tổng nha Thanh niên trực thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên.
Tuy nhiên, trong các môn phái võ học trên, chỉ có môn phái Vovinam là phát triển mạnh nhất, do cao trào đấu tranh chống Nhật – Pháp trước Cách mạng Tháng Tám. Vụ đụng độ điển hình nhất xẩy ra vào năm 1942, giữa 2 lớp sinh viên Việt và Pháp tại Hà Nội, đã tạo nên hình ảnh cao đẹp trong dư luận Hà Nội: Những sinh viên Việt thấp bé, gầy yếu đã xử dụng tay không đại thắng sinh viên Pháp cao to, khoẻ mạnh.
Từ đó, phong trào học "Võ Tự vệ" (danh xưng Võ trình nhập môn của Vovinam đương thời) và Vovinam bùng dậy mãnh liệt tại khắp các nơi: Các trường trung tiểu học, trường Sư phạm... mặc dầu tại một vài nơi, người Pháp đã quyết liệt áp dụng những biện pháp chế tài tối đa, cấm tập luyện, truyền bá Vovinam.
Sau năm 1945, phong trào học Vovinam để chống Pháp đã mở rộng ra các vận động trường và sân Đại Học Xá Hà Nội, với những lớp võ cộng đồng hàng ngàn người tới hàng chục ngàn người. Trận đánh điển hình nhất là trận cận chiến bằng dao găm và lưỡi lê, giữa một bên là Tự vệ Thành Hà Nội, một bên là lính Lê dương châu Phi thuộc Pháp năm 1946.
Điểm đặc biệt trong thời gian này là: Môn phái Vovinam dưới sự lãnh đạo của cố Võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc đã góp công đào tạo rất nhiều cấp chỉ huy kháng chiến qua lớp huấn luyện các cấp bộ đại đội trưởng và trung đội trưởng dân quân du kích tại Chế Lưu - Ẩm Thượng, Thanh Hương, Đan Hà, Đan Phú (Phú Thọ)… Trong kháng chiến chống Mỹ cũng như xây dựng lực lượng quân đội, công an sau này, võ thuật Vovinam luôn được chú trọng đưa vào giảng dạy, huấn luyện.
Môn phái Vovinam bước sang giai đoạn quảng bá mạnh mẽ với danh xưng Vovinam - Việt Võ Đạo, và hội nhập vào các chương trình huấn luyện cộng đồng cho quân đội, cảnh sát, sinh viên các trường đại học, trung học... đồng thời khởi sự quảng bá ra ngoại quốc. Các môn võ Việt Nam cổ truyền cũng bừng sống lại và hoạt động khá mạnh mẽ như: Võ Bình Định, Lam Sơn Võ Đạo v.v...
Hiện nay, các môn phái võ thuật Việt Nam vẫn được truyền bá rộng rãi khắp trong và ngoài nước, thu hút hàng triệu môn sinh tham gia tập luyện. Việc quảng bá võ thuật Việt cũng không ngừng được các võ sư truyền bá ra nước ngoài, giúp cộng đồng võ thuật thế giới hiểu rõ hơn về võ học Việt Nam và tinh thần võ đạo Việt Nam.