Social Icons

Pages

Thứ Hai, 7 tháng 12, 2015

NỮ TƯỚNG LÊ CHÂN - CUỘC ĐỜI, HÀNH TRẠNG VÀ NƠI THỜ PHỤNG


Nữ tướng Lê Chân (Hồng Sơn - Thanh Sơn - Kim Bảng - Hà Nam)
Nữ tướng Lê Chân - cuộc đời, hành trạng và nơi thờ phụng
Trong lịch sử đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, phụ nữ Việt Nam luôn song hành cùng nam giới, làm nên những chiến công bất hủ. Năm 40, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ, phụ nữ đóng vai trò then chốt cả về chỉ huy và chiến đấu. Bà Lê Chân là vị nữ tướng xuất sắc, công lao, chiến tích của bà lưu dấu ấn sâu đậm ở nhiều địa phương.
Từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội...

Theo thần tích, truyền thuyết và các tư liệu khác về bà Lê Chân vào những năm đầu công nguyên nước ta bị nhà Đông Hán (Trung Quốc) thống trị. Ở làng An Biên (tên nôm làng Vẻn) huyện Đông Triều, xứ Đông (nay thuộc xã Thủy An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) có ông Lê Đạo làm nghề thầy thuốc, tính nhân từ, hay giúp đỡ người nghèo khó. Vợ ông là Trần Thị Châu cũng là người thuần hậu. Hiềm nỗi, ông bà tuổi đã cao mà chưa có con. Nghe tiếng ngôi chùa ở núi Yên Tử trong huyện rất linh ứng, ông bà tìm đến cầu tự. Quả nhiên, bà Châu có mang, ngày mồng 8 tháng 2 năm Canh Thìn (20) bà sinh con gái khôi ngô, bụ bẫm. Ông, bà đặt tên con là Chân. Năm Lê Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh của nàng nổi tiếng khắp vùng.
Thái thú Tô Định, một kẻ tham tàn, bạo ngược "thấy tiền thì giương mắt lên" đi kinh lý qua Đông Triều. Nghe kẻ nịnh thần tâu bày về sắc đẹp của nàng Lê Chân, Tô Định bèn dùng quyền thế ép nàng làm tì thiếp. Lê Chân dứt khoát chối từ. Tức tối, Tô Định hãm hại cả bố, mẹ nàng. Căm giận quân cướp nước, Lê Chân nung nấu căm thù, quyết trả thù nhà, nợ nước. Nàng tìm thày học binh thư, võ nghệ, kết giao với những người cùng chí hướng. Khi võ nghệ đã tinh thông, nàng cùng bạn bè tâm phúc sang đất An Dương (Hải Phòng), lúc ấy là một vùng đất bãi phù sa mới bồi. Nàng chiêu dân tứ xứ khai khẩn đất hoang, lập nên xóm ấp, chiêu tập binh mã, sắm sanh vũ khí, tích trữ lương thảo sẵn sàng khởi nghĩa.
Nghe tin ở xứ Đoài, Hai Bà Trưng cũng đang mưu nghiệp lớn, Lê Chân chẳng ngại đường sá cách trở tìm đến đất Mê Linh. Bà Trưng Trắc phong Lê Chân làm tướng được cùng bàn luận kế sách khởi nghĩa rồi phái nàng trở lại quê nhà, chiêu tập thêm binh sĩ, chuẩn bị sẵn lương thảo, chờ thời cơ hành động.
Tháng 3 năm Canh Tý (40) Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống bè lũ thống trị Đông Hán. Hưởng ứng lời hịch của Hai Bà, thủ lĩnh và nhân dân khắp 4 quận Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung Trung bộ), Hợp Phố (Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc) đã nhất tề nổi dậy, hợp sức với đạo quân chủ lực của Hai Bà, tấn công địch ở khắp nơi. Đạo quân của Lê Chân từ mạn biển xứ Đông đánh thốc lên Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) lỵ sở quận Giao Chỉ, nơi có bộ máy thống trị của bè lũ Tô Định, phối hợp với quân của Hai Bà Trưng và các thủ lĩnh nghĩa quân khác, giải phóng quận thành. Tô Định vội vã tháo chạy về đất Nam Hải (Trung Quốc) xin quân cứu viện.
Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Đông Hán. Đất nước sạch bóng quân thù, bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua (Trưng Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Lê Chân khi ấy 24 tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa,
Nữ tướng Lê Chân đem quân trở về vùng đất An Dương khi trước, mở thêm trại, ấp lập ra trang An Biên (lấy tên quê gốc). Bà dùng nhân công khai khẩn đất hoang dọc ven sông Tam Bạc thành đồng ruộng cấy lúa, trồng dâu xanh tốt. Chỉ trong thời gian ngắn, trang An Biên dân cư đã đông đúc, kinh tế phát triển, nhiều nhà dân giàu có. Bà Lê Chân thường xuyên cho luyện tập trận thế, mở những lớp  đấu vật, đài thi võ để nâng cao sức khỏe, khả năng chiến đấu của binh sĩ, dân chúng.
Trong thời gian bà Trưng Trắc làm vua, nhà Đông Hán phải lo đối phó với biến loạn lớn trong nước, nên không thể phát quân xâm lược nước Âu Lạc. Song triều đình Hán đã sửa soạn kỹ cho cuộc đàn áp. Mùa hạ, tháng 4 năm Kiến Vũ thứ 18 (42), vua Quang Vũ phong lão tướng 58 tuổi Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân thống suất quân sĩ sang xâm lược nước ta. Mã Viện xảo quyệt, mưu mô, có tài chinh chiến, dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Lực lượng quân sự Đông Hán huy động ở mấy quân phía Nam Trung Quốc binh lính thiện chiến quen với thung thổ, khí hậu nhiệt đới, gồm 2 vạn quân chủ lực, 2000 thuyền, xe lớn, ngoài ra còn quân chèo thuyền, dân phu tải lương, phục dịch.
Mã Viện chỉ huy cả hai đạo quân, chia hai đường thủy bộ, vừa dùng thuyền vượt biển, vừa đi đường ven chân núi phát cây mở đường hơn nghìn dặm; hai cánh quân thủy, bộ không cách xa nhau lắm để còn liên hệ phối hợp với nhau. Từ vùng ven biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, hai đạo quân thủy, bộ Đông Hán tiến đến cửa sông Bạch Đằng (Quảng Ninh - Hải Phòng) để vào nội địa nước ta.
Đội quân thường trực phòng thủ ven biển Đông Bắc do Chưởng quản binh quyền Lê Chân chỉ huy đã ra quân kịp thời chặn đánh quyết liệt đoàn thuyền binh đông đảo của giặc ngay từ cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh của Trưng Vương trên bộ nữ tướng Thánh Thiện đem quân lên đánh giặc ở biên giới; nữ tướng Bát Nàn chặn cánh quân trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối hợp với nữ tướng Lê Chân.
Suốt dọc sông Bạch Đằng, Đá Bạc, dưới nước và trên bờ hai đạo quân, đa số là phụ nữ chiến đấu quyết liệt. Lê Chân cho dựng chướng ngại vật trên sông, dùng những chiếc thuyền chiến nhỏ, nhẹ, dễ cơ động tập kích vào mạn sườn đoàn thuyền to lớn, nặng nề của giặc, làm chúng tổn thất không ít. Song do quá chênh lệch về lực lượng, trang bị, vũ khí so với địch, nên hai nữ tướng phải lui quân.
Đội thuyền binh của Lê Chân nhỏ nhẹ, ngược sông Bạch Đằng tiến rất nhanh, còn binh thuyền của Mã Viện to lớn, nặng nề nên đuổi theo rất chậm. Chẳng mấy chốc quân ta đã bỏ xa quân địch. Theo đường sông Bạch Đằng - Kinh Thầy - sông Đuống, thủy quân của Lê Chân tập kết về vùng hồ Tây, Hoàng Mai bên bờ hữu sông Hồng. Trong thời gian ngắn trú quân ở đây, nữ tướng Lê Chân gấp rút củng cố lực lượng, tuyển thêm binh sĩ, đóng thêm thuyền chiến. Bà cho binh sĩ luyện tập võ nghệ, mở lò đấu vật. Mọi việc đã xong, nữ tướng Lê Chân gấp rút hành quân về bảo vệ kinh đô Mê Linh.
Chờ đợi không thấy quân Mã Viện tấn công, Hai Bà Trưng đã chủ động tiến quân từ Mê Linh, qua Cổ Loa (Tây Vu), xuống Lãng Bạc đánh quân xâm lược đang đóng tại đây. Quân ta chiến đấu ngoan cường, đội quân tiên phong do nữ tướng Lê Chân chỉ huy tả xung, hữu đột. Bị cầm chân nhiều ngày, quân tướng địch đã có phần nao núng. Nhưng kẻ địch còn rất mạnh, quân đông, thủy bộ phối hợp lại thạo đánh tập trung do tên lão tướng Mã Viện quỉ quyệt chỉ huy, nên dần xoay chuyển tình thế. Quân Hai Bà Trưng trang bị thiếu, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, chưa quen đánh kiểu trận địa nên bị thiệt hại nặng, Hai Bà Trưng, nữ tướng Lê Chân và một số tướng lĩnh phải chuyển sang hữu ngạn sông Hồng, rồi lùi về căn cứ Cấm Khê (Kim Khê) - thung lũng suối Vàng ở chân dãy núi Ba Vì (Hà Nội). Đây là vùng núi rừng hiểm trở, ba mặt có sông lớn (sông Đà, sông Hồng, sông Đáy) ở thế thiên hiểm, tốt cho việc phòng ngự.
Quân thù kéo tới vây hãm, mở nhiều đợt tấn công. Quân ta kháng cự quyết liệt nhưng dần vào thế bất lợi. Mở đường máu Hai Bà Trưng và các nữ tướng Lê Chân, nàng Tía, lão tướng Đô Dương đem lực lượng còn lại rút theo hai đường thủy, bộ. Đường thủy theo sông Tích ra sông Đáy. Để bảo toàn khí tiết, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận. Nữ tướng Lê Chân tiếp tục cùng thủy binh xuôi về nam đồng bằng sông Hồng. Đạo quân của Đô Dương, nàng Tía rút theo đường thượng đạo đi len lỏi dưới chân dãy núi đá vôi 99 ngọn từ Ba Vì, Hòa Bình vào đất hai huyện Kim Bảng, Thanh Liêm (gọi là dãy Nam Công) rồi qua Ninh Bình vào Cửu Chân (Thanh Hóa).
Đến căn cứ Lạt Sơn
Chụp tổng thể khuôn viên đền chính
Sông Đáy - chi lưu bên hữu ngạn sông Hồng, bắt nguồn ở xã Vân Nam (Phúc Thọ, Hà Nội) chảy qua vùng đồng bằng vào đất Hà Nam thì gặp núi ở thôn Vĩnh Sơn (xã Tân Sơn - Kim Bảng) ở cả hai bờ. Sông tiếp tục uốn khúc qua hai xã Khả Phong, Thi Sơn với những khối núi, quả núi độc lập nằm bên hữu ngạn, đến địa phận xã Liên Sơn, Thanh Sơn núi kết thành dải, trùng điệp, cây mọc thành rừng. Từ địa phận thôn Đồng Sơn hiện nay (xã Liên Sơn) cũng bên hữu ngạn sông Đáy, sông Ngân nhận nước sông mẹ, chảy ngoằn ngoèo ven dãy núi qua các thôn Bút Sơn, Lạt Sơn (Thanh Sơn, Kim Bảng), Tân Lâm, Nam Sơn (thị trấn Kiện Khê) rồi đổ nước vào sông Đáy ở địa phận thôn Đò (xã Thanh Thủy) huyện Thanh Liêm.
Cổng đền thờ

Nữ tướng Lê Chân đã chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn để làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán, để một bộ phận nghĩa quân của nàng Tía, lão tướng Đô Dương tiếp tục rút về Cửu Chân (Thanh Hóa) vì tuyến đường thượng đạo từ Ba Vì cũng qua đây. Căn cứ Lạt Sơn lưng tựa vào dãy núi hình cánh cung ở phía Tây chạy từ Bắc xuống Nam; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai hào nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Trận địa phòng thủ được xây dựng ở các thung lũng trước núi, ở các hang động và các đồi đất lẫn đá kéo dài khoảng 7 km từ Bắc xuống Nam. Các tên thung, núi đồi và ký ức dân gian, mặc dù đã trải qua gần 2.000 năm vẫn giúp đời sau hình dung được những nét cơ bản về căn cứ và những trận đánh cuối cùng của bà Lê Chân.
Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây bố trí đội quân tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù... phía sau Mộc Bài là đồi Dốc voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh(1). Tiếp xuống phía Nam, lần lượt là thung Hóc Bạc có kho lương thực, hậu cần; thung Bể, thung Dâu nơi đóng đại quân. Hang Diêm trên sườn núi phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi cao khoảng 225 m đặt vọng gác, quan sát được toàn bộ căn cứ. Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm tập hợp kiểm đếm số lượng binh sĩ. Sau thung Dâu là hai thung Đội Nhất, Đội Nhì nơi trú đóng của hai đội quân. Đồi Ông Tượng, điểm cuối căn cứ cách không xa sông Ngân về phía Tây. Cách vị trí đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km là thung Trống, nhân dân địa phương giải thích là nơi có lầu trống dùng để đánh cầm canh và hiệu lệnh chiến đấu. Một số địa danh trong khu căn cứ như đồi Dớn, non Tiên, thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục mẫu cần xác minh thêm về ý nghĩa.
Cùng với xây dựng căn cứ, nữ tướng Lê Chân gấp rút chiêu mộ thêm binh sĩ chủ yếu là người Lạt Sơn và các vùng lân cận, lập nhiều cơ đội. Đạo quân của Đô Dương đã bổ sung một bộ phận binh sĩ, trong đó có nhiều người họ Dương cho căn cứ Lạt Sơn(2).
Căn cứ còn chưa vững chắc, Mã Viện đã đưa quân đến vây hãm, mở nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự cả trong các thung và trên sông Ngân. Các trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên cường. Biết không đủ lực lượng đánh bại quân thù, hơn nữa lão tướng Đô Dương, nàng Tía đã rút lui an toàn, Bà cho binh sĩ bí mật rút khỏi căn cứ để mưu kháng chiến lâu dài, còn Bà và số ít tướng lĩnh, một bộ phận quân sĩ ở lại tử thủ. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên, thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ. Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở Đồng Loạn, nữ tướng Lê Chân cùng mấy tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn dốc đứng, nữ tướng Lê Chân gieo mình tự vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc, (núi này cách đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km về phía Tây). Thời khắc ấy vào buổi chiều ngày 13 tháng 7 năm Quí Mão (43). Mấy tướng tâm phúc đã mai táng Bà ở một hang động trong căn cứ(3).
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng in đậm dấu son trong sử sách, trong ký ức dân gian qua nhiều thế hệ. Các nữ tướng, nam thần của cuộc khởi nghĩa đều có đền thờ, được nhân dân đời đời khói hương tưởng kính. Nữ tướng, Thánh Chân công chúa, Chưởng quản binh quyền Lê Chân được nhiều địa phương thờ phụng. Đó là: Đền An Biên (xã Thủy An, Đông Triều, Quảng Ninh) quê hương nữ tướng; đền Nghè (An Biên cổ miếu), đình An Biên (phường An Biên), đình Vẻn ngoài (phường Trại Cau) quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là nơi Bà khai hoang, lập nên trang ấp, xây dựng lực lượng và chặn đánh cuộc xâm lược của Mã Viện; đình Hoàng Mai (phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội) nơi bà lập sới vật để rèn luyện quân sĩ. Đặc biệt tại căn cứ Lạt Sơn xưa, từ bao đời nay nhân dân địa phương, khách thập phương xa gần tụ về chiêm bái, đông nhất vào kỳ lễ hội, ngôi đền thờ Bà Lê Chân, tưởng niệm vị nữ tướng anh hùng dành trọn cuộc đời mình vì nghĩa lớn. Cũng nơi đây trên vách đá thung Bể còn lưu lại ba tấm bia niên đại năm 1671, 1672 triều vua Lê Gia Tông thời Hậu Lê, nói đến việc xây chùa Thánh Chân, khởi nguồn là Tiên động Thánh Chân, một bia có khắc hình con hổ, gợi liên tưởng đến sự dũng mãnh như hổ của nữ tướng Lê Chân, điệp thêm sự tôn kính, nâng Bà lên hàng Thánh Mẫu, Phật Mẫu.
Không chỉ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Hà Nam mà cả nước đều tôn vinh, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân, bởi vì bà đã để lại cho hậu thế muôn đời tấm gương chói lọi vì nước, vì dân./.
 Chú thích:
(1) Bia ma nhai trên vách đá ở thung Bể (Lạt Sơn) có khắc hình con voi thêm một căn cứ về sự có mặt của đội tướng binh.
(2) Đô Dương quê làng Dương Xá (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Ông là đô vật nổi tiếng. Đô Dương có nghĩa sau: Đô vừa là đô vật vừa chỉ chức quan võ chỉ huy một đạo quân, Dương là họ, không phải tên. Bia ma nhai ở thung Bể (Lạt Sơn) khắc tên nhiều người họ Dương công đức xây chùa Thánh Chân, gợi liên tưởng về sự tham gia của người họ Dương ở căn cứ Lạt Sơn. Tộc phả họ Dương ở Lạt Sơn cho biết tổ tiên vốn người Cửu Chân (xã Gia Miêu, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa).
(3) Bia Lạt Sơn, niên đại 1671 nói đến Tiên động Thánh Chân, phải chăng bà được mai táng tại đây nên mang tên này.
Mai Khánh


LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG LIỄU ĐÔI

“Nghìn năm vật võ đua tài; Vạn năm sông rộng núi dài tổ tiên”
Hội vật Liễu Đôi được tổ chức ở làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Ở các lễ hội khác, vật võ chỉ là trò vui thể thao thì trong lễ hội Liễu Ðôi này, vật võ lại là nội dung chính của ngày hội.
Liễu Đôi là một mảnh đất giàu truyền thống thượng võ. Ở đây có hội vật nổi tiếng, thu hút các đồ vật gần xa đến tham dự đua tài. Người dân Liễu Đôi lưu truyền rất nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của hội vật và cả những truyền thuyết liên quan đến vật võ và hội vật võ mà di tích còn in dấu đậm đặc trên mảnh đất này.
Lễ hội bắt đầu từ sáng mồng 5 và kết thúc vào mồng 7 Tết



Một số hình ảnh diễn ra trong Hội Vật Liễu Đôi
Truyền thuyết Liễu Đôi kể rằng ở đây có một chàng trai họ Đoàn có sức mạnh phi thường lại giỏi võ, một mình địch nổi năm trai tráng trên sới vật. Một hôm, ở Nương Cửi, tự nhiên có một ánh sáng xanh chói lòa phát ra, dân làng vô cùng hoảng sợ, chỉ có chàng trai họ Đoàn nọ dám đi tới và nhận thấy ánh sáng ấy phát ra từ một thanh gươm đặt trên một tấm khăn đào. Chàng trái bái tạ thần linh, tay cầm gươm, lưng thắt chiếc khăn đào, múa gươm cho dân làng xem. Khi có giặc phương Bắc kéo tới, chàng trai mang gươm ra trận. Trong đoàn quân của chàng có nữ tướng họ Bùi rất dũng cảm, hai người thề ước với nhau. Nhưng không may, chàng trai bị tử trận, thi hài được mang về quê hương. Giặc tan, nữ tướng họ Bùi đến viếng mộ chàng nhưng quá đau thương nên đã chết trên ngựa khi cách mộ chàng chừng vài trăm bước. Dân Liễu Đôi thương nhớ, lập đền Ông thờ chàng, gọi là Thánh Ông, lập đền Bà thờ nữ tướng, gọi là đền Tiên Bà. Hàng năm làng mở hội vật để tưởng niệm, gọi là hội Thánh Tiên (gọi tắt hai chữ Thánh Ông–Tiên Bà), đó là hội Vật võ Liễu Đôi.
Hai đô vật so tài trận mở màn lễ hội vật Liễu Đô  Ảnh: Nguyệt Anh
Hàng năm, vào ngày 05 tháng Giêng âm lịch cho đến hết ngày mồng 10 tháng Giêng lại diễn ra Lễ hội văn hóa truyền thống Liễu Đôi, trong không khí chuẩn bị Tết nguyên đán, dân Liễu Đôi làm mọi công việc cần thiết để phục vụ cho Lễ hội. Trong Lễ hội này sôi động nhất là phần tổ chức vật võ (gọi tắt là Hội Vật võ Liễu Đôi) đây là một tục lệ tiêu biểu cho văn minh, văn hóa Liễu Đôi. Đoạn đường từ đền Ông đến xới vật (tức Nương Cửi) được dọn quang. Trường diễn hay gọi là dóng vật được chọn đặt trên mảnh đất truyền thống, đó là Nương Cửi, nơi chàng trai họ Đoàn được gươm thần thuở trước. Tham dự hội là dân làng Liễu Đôi và các làng có truyền thống vật võ gần xa. Hội vật võ Liễu Đôi cho phép phụ nữ được tham gia, chị em cũng được ra đóng với đao, côn, kiếm, quyền… không thua kém con trai. 


Nghi thức tiến hành Lễ hội Văn hóa truyền thống Liễu Đôi được diễn ra như sau: Đầu tiên là Lễ rước Thánh vào dóng, Dóng tức là nơi tổ chức vật, rước thánh vào dóng tức rước kiệu Thánh Ông từ đền vào dóng vật. Lễ vật dâng thánh là lễ chay, gồm mấy phẩm oản, vài bẹ chuối, một nậm trà (thay cho rượu). Một cụ già tay cầm gương đi giật lùi dẫn đầu cuộc rước, khi kiệu Thánh vào dóng thì làm lễ tế. Sau lễ tế Thánh là Lễ phát hoả. Người ta đốt lên một ngọn lửa lớn để tưởng nhớ lại ngọn lửa xanh thần diệu bốc lên từ thanh gươm phát hỏa mà trời ban cho đất Liễu Đôi ở cánh Nương Cửi. Tiếp đó là Lễ trao gươm và thắt khăn đào tưởng nhớ việc chàng trai họ Đoàn nhận thanh gươm thần và tấm khăn đào. Ông Trùm là một người cao tuổi có uy tín được cử cầm trống cái cho hội trao chiếc gươm trên kiệu thánh và thắt khăn đào cho một đô vật danh dự được cử ra ngồi dưới cây dải trước rạp. Sau đó là Lễ múa cờ tụ nghĩa, điệu múa này còn có tên là "thiên nhân kỳ trận". Điệu múa này có hai hoặc bốn người tham gia, mỗi người một lá cờ đỏ hình vuông, tiến từ hai bên kiệu thánh ra giữa đóng theo hiệu trống mà múa. Theo tiếp là Lễ thanh động. Lễ này bắt đầu bằng tiếng trống cái ở dóng nổi lên liên hồi cùng với tiếng pháo nổ ran, tiếng chuông, cồng, mõ, thanh la tại khu vật võ và tất cả các đền chùa trong vùng đều nhất tề hưởng ứng hoà với tiếng reo hò cổ vũ sôi nổi.


Sau những nghi thức trên thì đến cuộc vật võ. Hội vật võ có nhiều nghi thức bắt buộc. Đầu tiên là nghi thức gọi là “năm keo trai rốt”. Trai rốt là hai cậu con trai của làng ra đời cuối cùng trong năm qua. Mở đầu cuộc vật, làng gọi tên hai trai rốt ra vật năm keo trình làng, lễ thánh. Tất nhiên trai rốt hãy còn bé chưa vật được nên bố phải ra vật thay. Lệ quy định, hai ông bố chỉ vật biểu diễn, không được vật thật để đối phương ngã, bởi vì hai ông bố ra vật với mục đích trình làng, trình Thánh chứng giám để hai đứa trẻ tương lai sẽ trở thành hai đồ vật võ. Vì vậy nếu để bị ngã thì làng sẽ bắt phạt cả hai. Có khi bố đi vắng thì ông ra vật thay, không được bỏ cuộc. Với lệ này, người dân Liễu Đôi muốn nhắn nhủ con cháu là sinh ra làm anh con trai thì trước hết phải là trai vật võ. Tiếp theo là nghi thức “đô xã làm nền”, có nghĩa là đô Liễu Đôi vào dóng trước, giao đấu trước để gây không khí, khuyến khích tinh thần cho đô vật bốn phương. Khi đô vật bốn phương đã hăng say rồi thì đô vật Liễu Đôi rút ra, nhường dóng cho khách, chỉ đứng ngoài cổ vũ động viên là chính. Vào giải, ai thắng được 5 keo liền thì được vào vòng giải. Ai thắng hết các đô trong vòng giải thì được giải cọc. Giải cọc là giải đặc biệt, tiếp đến là giải thứ: nhất, nhì, ba, cuối cùng là giải cuộc trao cho tất cả những người vào đóng vật. Như vậy, cả người thua cũng có giải. Phần thưởng trao giải là tiền hảo tâm của thập phương công đức, ngoài việc chi vào đèn nhang, còn lại bao nhiêu phải chi hết vào giải, nếu còn chút ít thì cho người nghèo ngay tại chỗ, tuyệt không được chi dùng vào việc khác. Vào dóng, đô vật chỉ được đóng khố, không được mặc quần áo. Các đô vật có tục kiêng cởi áo và xỏ áo tay phải trước, vì tay phải là tay cầm giáo, cầm gươm, tay lợi thế trong đấu vật. Cần cởi áo hoặc xỏ áo, họ dùng tay trái trước, vì thế, tay trái còn gọi là tay áo. Trong dóng, những miếng hiểm độc làm hại đối phương bị cấm ngặt. Ai phạm luật bị xử rất nghiêm khắc. Người phạm luật bị phạt đứng giữa đóng cho một đô vật khoẻ hơn bê vứt ra khỏi dóng và năm đời con cháu không được tham gia vật võ. Liên quan đến hội vật võ Liễu Đôi còn có hội thi món ăn đặc sản trước hôm mở hội, món ăn nào được làng trao giải mới được đem bán phục vụ khách thập phương trong những ngày hội.

Giải thưởng cho chức vô địch là 150.000 đồng
Tinh thần thượng võ của người dân Liễu Đôi còn được thể hiện ở “lễ trầm tự”,được tiến hành vào đêm 30 tết tại chùa Ba Chạ. Trầm tự có nghĩa là chém chữ. Tương truyền có một vị tướng đời nhà Trần khi về đây thao binh luyện tướng đến khi ra quân đã trao lại cho 5 làng của xã Liễu Đôi một cuốn binh thư có tên là “Võ trận”. Người dân Liễu Đôi truyền đời phải học thuộc cuốn binh thư đó. Đêm ba mươi tết, các tộc trưởng đeo gươm vào đền thờ Thánh trước mặt là băng giấy ghi chữ đầu trang của tập “Võ trận”. Đúng giao thừa, đèn nến vụt tắt, mỗi tộc trưởng vung gươm chém một nhát lên băng giấy trước mặt. Chém được đoạn giấy nào thì nhận lấy đoạn giấy ấy. Xong lễ, đèn nến sáng trở lại, từng họ xem các chữ đầu của băng giấy biết được họ mình năm đó phải học thuộc đoạn nào trong sách. Nhiều năm như thế, các dòng họ có thể thuộc lòng quyển binh thư. Đến thời Pháp thuộc, việc dùng gươm chém băng giấy đã được thay bằng việc rút thẻ. Ngày nay, cuốn “Võ trận” không còn nên lễ trầm tự cũng không còn nhưng ký ức về tục lệ đó đã chứng tỏ tinh thần thượng võ sâu đậm của người dân Liễu Đôi.
Thanh Sơn

Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2015

Võ sư Nguyễn Văn Chiếu nhận báu kiếm núi Nưa



Tối 6/10, ông Lê Văn Nam – Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hoá đã trao thanh Kiếm lệnh núi Nưa cho võ sư Nguyễn Văn Chiếu – Chánh Chưởng quản Môn phái Vovinam Việt Võ Đạo/Tổng thư ký kiêm Phó chủ tịch Liên đoàn Vovinam Việt Nam.


Ông Lê Văn Nam – Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hoá
đã trao thanh Kiếm lệnh núi Nưa cho võ sư Nguyễn Văn Chiếu
Đây là phiên bản của thanh được các nhà khảo cổ phát hiện vào năm 1961 ở căn cứ khởi nghĩa của Bà Triệu (Triệu Thị Trinh) tại chân núi Nưa, xã Tân Ninh, H.Triệu Sơn (Thanh Hóa). Thanh kiếm báu núi Nưa được dân gian liên tưởng đây là thanh Kiếm lệnh của Bà Triệu trong cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của phương Bắc. Với thanh kiếm lệnh này, Bà Triệu uy mãnh xuất trận trên bành voi, khiến lũ giặc Ngô phải kinh hồn bạt vía. Kiếm núi Nưa được chế tác bằng đồng, có lưỡi dài 46,5 cm, rộng 5 cm, chuôi kiếm dài 18 cm, nặng 620 gr, được chế tác theo hình lá tre mang đặc trưng phong cách sông Mã.

Võ sư Nguyễn Văn Chiếu với thanh kiếm do Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa trao tặng
Theo sử sách, vùng núi Nưa xưa kia vốn là nơi Bà Triệu cùng với người anh trai là Triệu Quốc Đạt, một huyện lệnh có thế lực trong vùng đã dấy binh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của phương bắc. Tại đây vào năm 248, Bà Triệu đã tập hợp nghĩa sĩ, luyện tập võ nghệ, đánh đuổi giặc Ngô, giành lại giang sơn. Dù cuộc khởi nghĩa đã thất bại sau đó và Bà Triệu phải tuẫn tiết ở núi Tùng (xã Triệu Lộc, H.Hậu Lộc, Thanh Hóa ngày nay), nhưng hình ảnh người phụ nữ anh hùng Triệu Thị Trinh là biểu tượng cho tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam.



Cho tới nay, đã có rất nhiều người theo đuổi võ Vovinam, một phần đó là nhờ công sức của VS Chiếu, người đã dành hơn bốn thập kỷ để bồi dưỡng phát triển truyền bá tinh hoa võ Việt. Trong đó có sự phát triển lớn mạnh của vovinam Thanh Hóa (chủ nhà giải vô địch vovinam toàn quốc lần thứ 23). Chính vì vậy, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định gởi tặng cho vị võ sư này thanh kiếm báu núi Nưa với ý nghĩa mong muốn võ sư Nguyễn Văn Chiếu sẽ tiếp tục đưa môn võ Vovinam phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Bên cạnh đó, với thanh Kiếm lệnh của Bà Triệu trên tay giúp ông cùng Vovinam chiến thắng mọi khó khăn và chiếm lấy trái tim của mọi người yêu võ thuật trên thế giới.

Giang Thanh

Bổ sung chương trình Huấn luyện Vovinam - Việt Võ Đạo

Võ sư Huỳnh Khắc Nguyên thực hiện bài Khởi Quyền



Bài Khởi quyền do Liên đoàn Vovinam Việt Nam 
thực hiện được chính thức áp dụng kể từ ngày 01/12/2015

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

Có nên đưa kỹ thuật vật vào thi đấu đối kháng Vovinam?

Một thế vật của Vovinam


Môn phái Vovinam dựa trên nền tảng võ và vật cổ truyền Việt Nam, nhưng trong hệ thống  luật thi đấu đối kháng hiện nay chưa cho phép sử dụng các đòn vật. Vậy có nên đưa kỹ thuật vật vào thi đấu đối kháng Vovinam hay không? và lộ trình đưa vào ra sao? Xin giới thiệu đến quý bạn đọc bài viết của võ sư Châu Minh Hay về vấn đề này.

Triết lý kỹ thuật và tinh thần của Vovinam – Việt Võ đạo

Kỹ thuật đòn chân đẹp mắt của Vovinam


Điều gì sẽ xảy ra?

“Môn phái Vovinam dựa trên nền tảng võ và vật cổ truyền Việt Nam” . Đó là câu nói đầu tiên khi người môn đồ của Vovinam được người hướng dẫn truyền đạt cho lý thuyết võ đạo cơ bản ngay từ thời gian mới bước chân vào ngưỡng cửa môn phái. Điều này đã nói lên rằng hệ thống kỹ thuật của Vovinam chứa đựng 2 phần võ và vật, thể hiện qua chương trình huấn luyện các cấp.

Vovinam được khai sinh trong bối cảnh đất nước đang cơn binh biến, cho nên bản thân nó là một môn võ quân sự, nhằm đáp ứng các tình huống tự vệ và chiến đấu xuyên suốt nhiều thập kỷ. Người học Vovinam sau một thời gian nhất định sẽ có thể tự vệ tốt, sau đó chuyên cần theo đuổi chương trình cấp cao hơn thì có thể thực hiện các biện pháp chiến đấu hết sức hữu hiệu khi đối diện với tình huống hiểm nguy.



Vật cổ truyền dân tộc
Sau năm 1992, Vovinam được biết đến như một môn võ thể thao! Chú trọng về biểu diễn nhiều hơn là tính chiến đấu. Và dần dần với sự hội nhập cùng thể thao thế giới thì Vovinam hoàn toàn chuyển mình phục vụ mục đích thể thao nhằm nâng cao sức khỏe cho mọi lứa tuổi. Cũng từ đó, sự đơn giản hóa trong các bài huấn luyện cũng được thể hiện khá rõ! Tuy đã được tinh giản nhưng trong chương trình vẫn tồn tại và phổ biến 18 thế vật căn bản được huấn luyện thường xuyên.

Trước 1975 và sau đó một thời gian vào khoảng cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, thì một số nơi vẫn áp dụng chương trình thi thăng cấp cũ . Thí sinh thi lên cấp Huyền đai (Hoàng đai trơn), ngoài đòn thế căn bản và quyền, thì các thí sinh đều phải thực hiện 3 hiệp đấu tự do (đối kháng) và một hiệp vật tự do. (không găng, không giáp) nếu có cũng chỉ găng mỏng (găng tập). Thời đó không có thảm đấu như bậy giờ, thảm đấu vật là một thứ xa xỉ chỉ được thực hiện vào các kỳ thi lên cấp Trung đẳng bằng chất liệu mùn cưa và vỏ trấu, bên trên phủ một lớp vải bao cát hay bao bột mì.

Xét về tính thực dụng thì vật là một môn chiến đấu khá gần gũi với sinh hoạt đời thường. Vật là một phản xạ tự nhiên đã hình thành rất sớm cho con người.

Quan sát cho thấy, 2 đứa bé con chỉ 1, 2 tuổi, không ai dạy cho chúng võ thuật, nhưng khi túm lấy nhau thì chúng đã biết ghì lấy và vật nhau. Cũng từ những phản xạ mang tính bẩm sinh mà người xưa đã khai thác và sáng tạo ra những thế vật tùy thuộc vào các tư thế, các tình huống khác nhau. Sáng tổ môn phái Vovinam đã không bỏ lỡ món quà thiên phú ấy.

Nếu trong các trận đấu đối kháng của Vovinam, không đưa một vài, (vâng, chỉ một vài đòn chân tấn công bắt buộc, thời gian vài năm trở lại đây) thì khó có thể người xem nhận ra đó là các võ sĩ của môn Vovinam!

Họ thi đấu hoàn toàn với các đòn căn bản của võ thuật mà môn võ nào cũng có. Nếu xem một trận đối kháng của môn Pencak Silat chúng ta chưa hiểu về luật của môn này thì trông có vẻ rất nhạt nhẽo! Hay môn Taekwondo họ thuần thi đấu bằng chân và Juodo thì toàn quăng quật…Đó là những nét đặc trưng của các môn võ ấy.

VĐV môn Pencak Silat đầu trần tay không

Còn Vovinam thì sao? không có nét đặc thù nào nếu không đưa vài đòn chân vào áp dụng! Tuy nhiên hiệu quả không cao và thường thì chỉ có thể áp dụng 3 – 4 trong số 21 đòn chân tấn công! Phải chăng chúng ta chưa khai thác hết nét đặc trưng của môn phái “lấy võ và vật cổ truyền làm nền tảng căn bản” ?

Võ thì thấy rồi, chỉ những đòn căn bản chung chung mà môn võ nào cũng sử dụng. Còn vật thì ở đâu chẳng thấy ?

VĐV môn Judo vật trên thảm

Từ giải đấu mang tính cả nước (giải Vovinam toàn quốc năm 1992) đến nay, người xem chỉ nhìn thấy võ sĩ Vovinam thi đấu với các đòn hết sức cơ bản của võ thuật, họ chưa thấy có gì gọi là đặc trưng của Vovinam! Vì vậy nên chăng, Vovinam nghiên cứu lại luật thi đấu, đưa hệ thống vật vào áp dụng trong thi đấu đối kháng.

Áp dụng thế nào?

Vài nét tham khảo sau đây sẽ cho chúng ta hình dung một trận đấu đối kháng “mới” của môn Vovinam.

Trước hết là quy định lại luật.

1- không được ra đòn vào phần mặt và đầu dù đấm hay đá. Chỉ được phép ra đòn từ vùng vai trở xuống.
Như vậy VĐV sẽ không cần thiết có trang bị nón bảo hộ (như luật thi đấu cho võ sĩ môn Pencak Silat áp dụng, không đội nón BH).

2- Chúng ta cũng nên thay giáp bảo hộ bằng loại giáp mỏng hơn như giáp bên Pencak Silat cho dễ cơ động.

3- Không sử dụng găng đấm (để tay trần) vì không được ra đòn trên vùng mặt nên không cần găng đấm.

Từ yếu tố tay trần này, võ sĩ sẽ có thể chụp kéo, nắm bắt nhằm thực hiện đòn vật của Vovinam đã được học.

Tất nhiên, nhà nghiên cứu luật cần phải nghiên cứu luật sao cho phù hợp. Chẳng hạn như VĐV vào đòn trong thời gian bao lâu mà không thực hiện được ý đồ thì trọng tài sẽ can thiệp. Khi VĐV vào được đòn vật, nếu áp dung hiệu quả thì được tính điểm (điểm thế nào thì còn tùy luật quy định). Nếu đè được đối phương đúng cách và sau thời gian được quy định là bao nhiêu giây thì sẽ được công nhận thắng tuyệt đối.

Về thời gian thi đấu thì vẫn áp dụng 3 hiệp đối kháng như luật cũ. Nhưng nếu một trong hai VĐV áp dụng được đòn vật đúng cách và đè hiệu quả theo thời gian quy định, thì được công nhận thắng tuyệt đối. Cho dù diễn biến này ở hiệp thứ mấy! có thể ngay phút đầu tiên của hiệp thứ nhất !

Về mức độ an toàn.

Ngày xưa các thí sinh thi lên đai không có thảm thi đấu chất lượng cao như ngày nay, nhưng vật tự do vẫn được đem ra áp dụng. Thảm thi đấu hiện nay đã phục vụ cho các cuộc thi của các môn như Vật hay Judo thì Vovinam không có gì ngoại lệ mà không sử dụng được. Có chăng là các nhà nghiên cứu luật thi đấu cần phải xem xét luật cho phù hợp với hình thức thi đấu mới cho môn Vovinam.

Có vậy thì người xem mới thấy được nét mới và thực dụng, đặc trưng của các trận thi đấu đối kháng môn Vovinam. Nếu không thì người xem sẽ chẳng thấy có gì với các môn võ khác trong các trận đấu, ngoài bộ võ phục màu xanh và dòng chữ Vovinam –Việt Võ Đạo.

Theo Blog Châu Minh Hay

Trailer hoành tráng giải trẻ Vovinam Châu Âu năm 2015



  


Giải trẻ Vovinam Châu Âu năm 2015 vừa tung ra đoạn trailer đầy ấn tượng quảng bá cho giải đấu sắp diễn ra.



Giải trẻ Vovinam Châu Âu năm 2015 được chia ra 3 nhóm vận động viên tham dự: Từ 9 – 12 tuổi, 13 – 15 tuổi, 16 – 18 tuổi. Gồm hai nội dung thi quyền và đối kháng. Về thi quyền các VĐV sẽ thi đấu ở các nội dung: Nhập môn quyền, thập tự quyền, Song luyện 1, Long Hổ Quyền, Tinh hoa Lưỡng Nghi kiếm Pháp, quyền Đồng đội…Ở đối kháng thì sẽ thi đấu theo từng hạng cân từ 40 kg đến 60kg.


Giải đấu dự kiến sẽ diễn ra từ ngày 6 – 8/11/2015 tại Bỉ.


Xem Trailer hoành tráng giải trẻ Vovinam Châu Âu năm 2015


 

Võ đường một học sinh, tôi vẫn lên lớp

Võ sư Quan Vân Triều – trưởng môn phái võ phái Nam Tông

Không ai nghĩ người đàn ông có hình dáng mảnh khảnh, nhỏ con lại là một võ sư vang bóng một thời của giới Võ lâm Sài Gòn – Chợ Lớn. Ông là võ sư Quan Vân Triều (66 tuổi), trưởng môn phái Nam Tông.

Võ sư Quan Vân Triều lúc nào cũng thân thiện, gần gũi với các học trò

Ông đến với võ thuật đến nay đã 50 năm. Trải qua bao thăng trầm trong làng võ, ông vẫn luôn giữ được phong độ và phẩm chất đạo đức, tư chất của con nhà võ cho đến nay mà trong giới võ thuật ai cũng biết tiếng.

Tuy vậy, nhưng ông có một cuộc sống lặng lẽ và âm thầm, không ồn ào, phô trương. Với ông, danh tiếng cũng chỉ làm con người ta tự mãn, tự cao, tự đại rồi từ từ quên đi cái gốc của con nhà võ nên ông chọn cho mình cuộc sống thầm lặng, cống hiến và chỉ truyền dạy cho những ai thực sự yêu nghề. Đó cũng là chính là đức tính mà ông được thừa hưởng từ võ sư Lê Văn Kiển, người thầy mà ông hết mực tôn sùng.

Trong mỗi lớp học, chỉ khoảng 20 em, ai cũng yêu mến vì ông có tấm lòng yêu thương trẻ vô hạn. Ông chưa một lần la mắng hay phạt các em nhưng ai cũng một mực nghe lời bởi cái uy và phong thái của một người thầy luôn làm các em kính trọng…

Với ông, sự thành công của học trò chính là niềm vinh dự, tự hào lớn nhất của một người thầy. Những thành viên trong võ đường luôn gắn bó và yêu thương nhau như một gia đình thứ hai.

Trải qua 50 năm trong làng võ và hơn 20 năm đi dạy võ, ông luôn tâm niệm “người ta dạy chữ, còn mình dạy võ – không thành danh thì cũng phải thành nhân”.

Lớp võ tại Nhà thiếu nhi Q.3 của võ sư Quan Vân Triều
Lớp học tuy chỉ có hơn 1h cho mỗi buổi tập, nhưng chất lượng cũng không kém, nhiều em tham gia giải trong và ngoài nước đã mang về rất nhiều thành tích, huy chương cho võ đường. Thành tích vinh dự nhất là em Dương Quốc Cường đã đạt Huy chương vàng võ thuật cổ truyền thế giới năm 2014 tại Hàn Quốc.
Cùng suy nghĩ như những phụ huynh khác, là một phụ huynh đã từng đưa con đi theo học 15 năm nay.

Anh Dương Vũ có con theo học đã 15 năm chia sẻ: “Trong tôi luôn đặt trong lòng mình một sự kính trọng bởi thầy là người có lòng nhân ái, đức độ, luôn hướng các em làm những việc thiện, thầy luôn nhắc nhở các học trò vè sự lễ phép, tôn trọng người lớn tuổi và biết yêu thương mọi người xung quanh…”

Hình ảnh về võ đường Võ phái Nam Tông:

Hơn 20 em

Chỉnh từ những thế cơ bản nhất cho các học trò

Những bài quyền thầy truyền cho các em


Bài siêu được thầy biểu diễn



Những binh khí được thầy dạy rất kỹ để làm sao đánh có uy và chính xác nhất


Anh Dương Vũ – phụ huynh đã cho con theo học 15 năm luôn đặt trong lòng sự thành kính với thầy Triều.
Theo Đinh Quang Tuấn/VietNamnet