Social Icons

Pages

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014

BÁNH CUỐN CHẢ NƯỚNG - PHỦ LÝ


Là món ăn của vùng quê Hà Nam. Bánh cuốn được làm từ loại gạo tẻ ngon, trắng ngần và tráng mỏng được ăn kèm với chả nướng.
Là món ăn của vùng quê Hà Nam. Bánh cuốn được làm từ loại gạo tẻ ngon, trắng ngần và tráng mỏng được ăn kèm với chả nướng. Chả được làm từ thịt lợn, được tẩm ướp nhiều gia vị, sau đó được nướng trên than hồng.

Chả nướng sẽ được chan nước chấm nóng với đủ vị mặn, ngọt, chua, cay, nhưng các vị đều rất hài hòa . Với bàn tay khéo léo, tinh tế của những người thợ làm bánh cùng với những bí quyết riêng trong việc chế biến nguyên liệu đã tạo nên hương vị độc đáo, hấp dẫn cho món ăn này và ngày càng chinh phục được rất nhiều thực khách.
Đến Hà Nam, du khách có thể thưởng thức món bánh cuốn chả ở một số quán ăn trong thành phố Phủ Lý như: Minh Đình, Minh Trang (đường Trần Phú), Minh Ngọc (đường Trường Chinh),  ....

CÁ KHO NHÂN HẬU - LÝ NHÂN


Cá kho Nhân Hậu là món ăn nổi tiếng của quê hương nhà văn Nam Cao. Cá để kho thường là cá trắm đen vì thịt của nó chắc lại thơm.
Cá kho Nhân Hậu là món ăn nổi tiếng của quê hương nhà văn Nam Cao. Cá để kho thường là cá trắm đen vì thịt của nó chắc lại thơm. Gia vị bao gồm: gừng, giềng, nước tương cua và một số gia vị truyền thống. Với kỹ thuật gia truyền của người dân Nhân Hậu trong chế biến đã làm cho miếng cá kho mang hương vị riêng hiếm thấy.

Nếu một lần được nếm món cá kho Nhân Hậu chắc hẳn bạn sẽ không bao giờ quên được hương vị đặc trưng riêng có. Cá kho Nhân Hậu đã thực sự trở thành món quà ẩm thực quý hiếm dành cho du khách trong dịp về thăm Hà Nam vào những dịp Tết Nguyên đán.

CHUỐI NGỰ ĐẠI HOÀNG LÝ NHÂN


Chuối Ngự Đại Hoàng là sản phẩm đặc sản nổi tiếng của vùng quê Đại Hoàng, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
Chuối Ngự Đại Hoàng là sản phẩm đặc sản nổi tiếng của vùng quê Đại Hoàng,  xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam,trước đây chuối ngự dùng để tiến vua. Khi chín, vỏ chuối mỏng có màu vàng óng như tơ, chuối có mùi thơm dịu, ruột quả màu vàng nghệ, ngọt mát mà khó có loại chuối nào sánh được.
Chuối ngự Đại Hoàng vừa ngon, bổ nhưng hiếm và quý bởi không có nơi nào trồng được ngoài vùng đất Đại Hoàng. Đây là nét đặc thù riêng có mà thiên nhiên đã ban tặng cho quê hương Hà Nam.

ẨM THỰC HÀ NAM (DÊ NÚI - KIM BẢNG)


Thịt dê được chế biến từ loại Dê nuôi ở vùng núi đá Kim Bảng và Thanh Liêm, được làm thành nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng và trở thành món đặc sản của Hà Nam.
Thịt dê được chế biến từ loại Dê nuôi ở vùng núi đá Kim Bảng và Thanh Liêm, được làm thành nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng và trở thành món đặc sản của Hà Nam. Đây cũng là món ăn được nhiều du khách ưa thích khi đến với Hà Nam.



NHỮNG LỜI TIÊN TRI BÍ ẨN CỦA GIA CÁT LƯỢNG



Trong văn hóa Trung Hoa, Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh là hóa thân của trí tuệ quân sự, chính trị. Những lời sấm truyền, thuật tử vi, tiên tri của ông để lại cho tới nay vẫn chưa được giải mã hết.

Bí ẩn những lời tiên tri của Khổng Minh Gia Cát Lượng

Ly kỳ những giai thoại 

Theo "Thục chí”, tài liệu được cho là chính xác nhất về Khổng Minh thì ông vốn là người Lang Nha, Dương Độ (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông). Lá số của ông là một trong 1.000 lá số của những người có ảnh hưởng lớn nhất cổ kim, được in trong cuốn Tử vi đẩu số toàn thư Trung Quốc. Theo lý giải tử vi, Khổng Minh là người tuyệt thế kỳ tài, thiên hạ vô song.
Từ nhỏ, Khổng Minh tỏ ra cực kỳ hiếu học, đọc đủ loại sách vở và tầm sư học đạo khắp nơi. Dịch lý (hay còn gọi là Kinh Dịch) được ông nghiên cứu khá nhiều, sau đó kết hợp với Chu Dịch của Chu Văn Vương đời nhà Chu để sáng tạo ra Gia Cát thần toán - sách về xem bói vẫn còn bán chạy cho tới ngày nay ở Trung Quốc.
Những chuyện Khổng Minh xem bói, đoán trước tương lai được kể khá nhiều trong dã sử và chính sử. Chuyện nổi tiếng nhất là việc ông khiến Lưu Bá Ôn - danh tướng văn võ song toàn thời nhà Minh phải phục sát đất, dù Lưu sinh sau Khổng Minh tới hơn 500 năm.
Trong phiên bản được nhiều người ưa thích nhất, Lưu Bá Ôn có lần thân chinh dẫn tướng sĩ vượt núi băng rừng truy kích quân địch, không may ngã vào một hang núi. Lần mò trong hang, Lưu gặp tấm bia đá khắc 14 chữ: Vạn đại quân sư Gia Cát Lượng, thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn. Dưới bia khắc dòng chữ nhỏ: Gia Cát Lượng thủ bút.
Hàng chữ kia có hàm ý: Gia Cát Lượng xứng đáng là quân sư của mọi thời đại, nhưng làm tướng thống nhất sơn hà thì có Lưu Bá Ôn. Sau tấm bia còn vẽ đường rời khỏi hang núi, nhờ đó Lưu Bá Ôn thoát khỏi cảnh chết đói chốn hoang vu. Sau này, Lưu Bá Ôn giúp Minh thái tổ Chu Nguyên Chương đoạt được thiên hạ.

Trong Gia Cát Lượng dã sử.

Trước khi bậc tuyệt thế kỳ tài qua đời, ông để lại một túi gấm và dặn con cháu bảy đời sau khi gặp nguy khốn hãy mở ra. Gia Cát Linh là cháu đời thứ bảy của Gia Cát Lượng. Gia Cát Linh lỡ tay đánh chết người, bị kiện tới Huyện nha. Bấy giờ Gia Cát Linh sực nhớ tới chiếc túi gấm do tổ tiên truyền lại, ông bèn lấy chiếc túi giao cho quan huyện. Quan huyện mở ra xem, thấy miệng túi có miếng lụa thêu chữ: "Xuống bệ ba bước hãy xem!".
Quan huyện hơi nghi ngờ nhưng cũng bước xuống bệ đường ba bước. Bỗng "rầm" một tiếng, chiếc xà trên nóc nhà đã rơi xuống đập nát bàn ghế nơi quan ngồi. Tiếp đó, ông mở túi gấm ra xem, thấy đáy túi còn miếng lụa có hai câu: "Ta cứu người cái họa sập nhà, ngươi giúp ta thằng cháu bảy đời”. Quan huyện hỏi kỹ lại sự tình, Gia Cát Linh đúng là cháu bảy đời của Gia Cát Lượng. Nhờ đó, Gia Cát Linh thoát chết.

Trước ngựa gieo quẻ

Một thuật xem tử vi khác của Khổng Minh là Mã Tiền Khóa (trước ngựa gieo quẻ), tương truyền Gia Cát Khổng Minh vào lúc nhàn hạ trong quân ngũ đã sáng tác ra. Đây là bài tiên tri dự đoán những đại sự trong thiên hạ, tổng cộng có 14 khóa.
Mã Tiền Khóa ngắn gọn súc tích lạ thường, chỉ có 14 khóa (bài thơ), mỗi khóa dự đoán một thời đại lịch sử, mà mỗi một khóa lại tuân theo một trật tự sắp xếp. Khi mỗi thời đại lịch sử qua đi rồi, người ta xem lại mới thấy Khổng Minh tiên tri chính xác. Đương nhiên, những người phản đối cho rằng, đó chỉ là cách suy diễn của đời sau, khi sự đã rồi. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu tiên tri lại đưa ra biện giải riêng.
Năm 1911, người của Đồng Minh Hội Cách Mạng Đảng tại các nơi phát động khởi nghĩa vũ trang, triều Thanh lung lay sắp đổ. Ngày 1/1-/1912, Chính phủ Cộng hòa thành lập tại Nam Kinh, Tôn Trung Sơn nhậm chức Tổng thống lâm thời. Ngày 13/2/1912, Hoàng đế nhà Thanh chính thức thoái vị, vương triều Đại Thanh kết thúc. Thỉ hậu ngưu tiền” – "Lợn sau trâu trước” chính là chỉ sự kiện này.
Năm 1911 là năm Tân Hợi, cũng là năm con lợn, "thỉ” chỉ "lợn”; năm 1913 là năm con trâu, do đó năm 1912 Hoàng đế nhà Thanh thoái vị và Chính phủ Cộng hòa thành lập, chính là năm "lợn sau trâu trước” (giữa năm lợn và năm trâu).
"Thiên nhân nhất khẩu” – "Nghìn người một miệng” là câu chơi chữ, "Thiên, nhân, khẩu” ba chữ hợp lại thành chữ "hòa” trong "Cộng hòa”. "Ngũ nhị đảo trí” – "Năm hai đảo ngược”, "Ngũ” và "nhị” ở đây là thuật ngữ trong Kinh Dịch. Với một quẻ Lục Họa, tổng cộng có sáu hào, theo đó mà phân biệt gọi là "nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục”, trong đó hào số năm là tôn vị, đại biểu cho ngôi Vua, hào số hai là thần vị, trên ngôi Vua, dưới bề tôi, chính là trật tự bình thường. "Ngũ nhị đảo trí” chính là vua mất chức mà dân lên nắm quyền.
Câu cuối, "Bằng lai vô cữu” cho tới nay vẫn chưa được lý giải hoàn toàn. Những nhà tiên tri Trung Quốc lập luận rằng, "Bằng lai vô cữu” – "Bạn đến không trách” là chỉ trong thời gian Trung Hoa dân quốc mới thành lập, bị các nước coi thường, Nhật Bản xâm lược, nhưng cuối cùng không bị tổn thương.
Tác giả bài viết: Kenny Nguyễn
Nguồn tin: P5Media

THÔN BÁT QUÁI HẬU DUỆ CỦA GIA CÁT LƯỢNG

Thôn Bát Quái nhìn từ trên cao 

Thôn này có tên là thôn Gia Cát hay Bát Quái, tọa lạc tại thị trấn Lan Khê, tỉnh Triết Giang, được mệnh danh là “Trung Quốc Đệ Nhất Thôn”. Đây cũng chính là trung tâm sinh sống của hậu duệ Khổng Minh Gia Cát Lượng nổi tiếng thời Tam Quốc. Vào cuối đời Tống, đầu nhà Nguyên (khoảng năm 1300), hậu duệ đời thứ 27 của Gia Cát Lượng là Gia Cát Đại Sư bắt đầu lập thôn Bát Quái tại Lan Khê, Triết Giang . Theo sử chép, Gia Cát Lượng từng lập ra một trận pháp thần kỳ gọi là Bát trận đồ, biến ảo khôn lường, uy lực vô cùng, từng vây khốn cả 10 vạn tinh binh của đại tướng Đông Ngô Lục Tốn.
Gia Cát Đại Sư đã vận dụng học thuyết Kham dư (phong thủy) vào Bát quái trận đồ của ông tổ mình, thiết lập thôn trang án theo Cửu cung bát quái. Thôn lấy cái hồ lớn (chung trì, nửa nước nửa đất) hình thái cực làm trung tâm, 8 con đường từ hồ toả ra thành “nội bát quái”. Phía ngoài thôn lại đắp 8 tòa núi nhỏ hình thành “ngoại bát quái” bao bọc. Các sảnh, đường, nhà ở phân bố dọc theo 8 đường. Gia Cát Đại Sư trước khi qua đời có để di huấn là không được thay đổi nguyên dạng. Trải qua hơn 800 năm dâu bể, lượng người trong thôn tăng lên nhiều, nhưng tổng thể cửu cung bát quái không hề thay đổi. Trong thôn có đền thờ Thừa tướng Gia Cát Lượng, hoa viên, 3 nhà bia, 18 sảnh đường, 18 giếng, 18 ao, hơn 200 phòng ốc đều là kiến trúc cổ đời Minh, Thanh rất độc đáo.
Con cháu Gia Cát theo lời giáo huấn của tổ phụ “không làm lương tướng, tất làm lương y” nên đời đời con cháu chỉ theo nghề thuốc. Trong thôn có cả Nhà triển lãm trung y dược, vườn thảo dược… Nơi đây, riêng đời Minh, Thanh đã có 5 tiến sĩ, 11 cử nhân, hàng trăm tú tài. Các chuyên gia, học giả Trung Quốcđang đề nghị đổi Lan Khê thành TP Võ Hầu và đang xúc tiến trở thành điểm Du lịch Trung Quốc nổi tiếng . Theo nhiều nhà nghiên cứu, kiến trúc bát quái này có công năng phòng vệ và cải tạo môi trường rất cao. Thôn Gia Cát đặc biệt mát mẻ, sạch sẽ, thông thoáng. Nhà kiến trúc Từ Quốc Bình cho rằng, kiểu kiến trúc của thôn này hoàn toàn khác với phong cách thôn trang truyền thống Trung Quốc, không lấy trung tuyến làm chủ mà bức xạ ra 8 hướng.
Các nhà trong thôn mặt đối nhau, đuôi liền nhau, đường nối nhau, rất thoáng mà kỳ thực kín đáo, nhà nọ thông sang nhà kia, khúc khuỷu quanh co, chỗ tưởng ngõ thông hóa ra lại là ngõ cụt, biến hóa tài tình dường như không theo quy luật nào… Địa hình nhìn từ xa giống như cái nồi, bốn phía cao, giữa thấp. Người ngoài vào thôn, nếu không có người quen dẫn đường thì lẩn quẩn không biết lối ra.
Năm 1925, chiến tranh ác liệt, quân đội của Quốc dân đảng là Tiêu Kính Quang đánh nhau với quân phiệt Tôn Truyền Phương 3 ngày dữ dội sát bên thôn Bát Quái nhưng không có viên đạn nào lọt vào thôn. Khi quân Nhật tấn công xuống phía nam, một đội quân lớn kéo qua đại lộ Long Cương nhưng không phát hiện ra thôn này.
Nguồn: Phong Thủy Tổng Hợp

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

LỄ HỘI ĐỀN TRẦN THƯƠNG


Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đền là di tích tiêu biểu của tỉnh Hà Nam và cả nước, hội tụ nhiều giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật, tâm linh, lâu nay được nhiều người biết tiếng. Đền thờ vị anh hùng dân tộc Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng gia quyến và các Bộ tướng có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII.

Giá trị lịch sử - văn hóa đền Trần Thương.


 

Trần Thương là mảnh đất địa linh, trù phú như câu ca truyền đời “Cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc ghi trên bức châm tại đền: “Trần Thương dư phúc địa, trà thảo tứ thời xuân” (đất Trần Thương lắm phúc, hoa quả bốn mùa xuân). Trước đây, Trần Thương là trung tâm “Lục khê đầu” (sáu khe nước). Từ đây có thể ngược sông Hồng đi Thăng Long rồi ra biển, qua sông Hồng về phía Đông khoảng 3km là khu Tam Đường (Hưng Hà, Thái Bình), nơi đặt lăng mộ của nhà Trần, về phía Nam khoảng 20 km là đền Trần – chùa Tháp (Nam Định).
   


Đền Trần Thương là một trong 3 ngôi đền lớn của cả nước, nơi thờ chính Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tương truyền trên đường đi đánh quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo thấy địa thế nơi đây hiểm yếu, bèn đặt 6 kho lương để phục vụ cuộc kháng chiến. Địa điểm ngôi đền hiện nay là kho lương chính. Sau khi chiến thắng trở về, ngài đã cắm sinh phần, lấy đây làm dân “tạo lệ” và từ đó xuất hiện thôn Trần Thương và các thôn khác như: Đội Xuyên, Hoàng Xá, Khu Mật… những tên cổ gắn với việc đồn trú của quân đội nhà Trần. Trong số các di tích thờ Trần Hưng Đạo Đại Vương trên đất Hà Nam và cả nước, đền Trần Thương là di tích tiêu biểu, có quy mô kiến trúc lớn, Ngôi đền thâm nghiêm, cổ kính tọa lạc trên đất thiêng “Hình nhân bái tướng” “Ngũ mã thất tinh”, được xây kiểu “Tứ thủy quy đường”. Tổng thể kiến trúc cảnh quan ngôi đền gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, 5 tòa, 15 gian, chia thành 3 cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và hai giải vũ, 5 giếng…Kiến trúc độc đáo và cảnh quan tự nhiên của đền Trần Thương như nhập đời vào đạo, nhập con người với vũ trụ trong một không gian văn hóa linh thiêng. Giá trị đền Trần Thương còn được thể hiện ở phần trang trí kiến trúc với các đề tài, họa tiết được chạm khắc công phu như: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước, mây trời…Tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa sống động, vừa cổ kính trang nghiêm hàm chứa triết lý dân gian.
Đồ thờ, cổ thư của ngôi đền cũng rất phong phú, quý hiếm. Đặc biệt là pho tượng Đức Thánh Trần trong ban thờ hậu cung với vẻ mặt uy nghiêm của một vị “Thánh” nhân, nhưng vẫn nở nụ cười bao dung, đôn hậu. Tổng thể kiến trúc, cảnh quan đền Trần Thương đã gợi lên bóng dáng phủ đệ của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Với những giá trị về lịch sử, văn hóa đặc sắc, năm 1989 đền Trần Thương đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia.

Lễ hội đền Trần Thương



 

“Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ”. Từ bao đời nay, nơi đây cùng các địa phương thờ Trần Hưng Đạo, mở hội vào dịp trung tuần tháng 8 (âm lịch), đặc biệt là ngày 20 tháng 8, ngày Đại vương qua đời. Dân gian có câu: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Vào ngày lễ hội, từ Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương đến đền Trần Thương, Lý Nhân, Hà Nam về đến Bảo Lộc (Nam Định) khách hành hương theo lộ trình chiêm bái, tôn vinh người anh hùng dân tộc, đã được truy tôn là bậc “Thánh”, ban những điều tốt lành, mong làm việc thiện.
Đền Trần Thương hàng năm mở hội từ 18 đến 20 tháng 8 (âm lịch), một lễ hội vùng tiêu biểu của tỉnh Hà Nam, thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương. Trong lễ hội diễn ra nhiều hoạt động văn hóa dân gian, tục thi đặc sắc, độc đáo nhất là lễ rước nước và thi bơi chải trên sông. Các nghi thức trên vừa mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận, gió hòa, “Phong đăng, hòa cốc”, “Quốc thái dân an”, nhắc nhở đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đồng thời gợi nhớ nguồn gốc của dòng tộc nhà Trần vốn quen nghề sông nước. Bên cạnh đó còn tổ chức “Diễn sướng Thanh đồng”, một lễ nghi đặc sắc có từ lâu đời của đền Trần Thương với sự tham gia đông đảo của các “cơ cánh” đến từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đặc biệt vào giờ Tý ngày rằm tháng Giêng hàng năm còn mở Lễ phát lương ban lộc đầu năm của Đức Thánh Trần cho nhân dân và khách thập phương.

 

Để bảo tồn và phát huy các di tích đặc sắc của di tích, năm 2009, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đã phê duyệt quy hoạch tổng thể và chi tiết di tích Lịch sử - Văn hóa đền Trần Thương giai đoạn 2009-2015, với 5 khu chức năng chính gồm: Khu vực bảo tồn các di tích Lịch sử - Văn hóa: Đền Trần Thương, đình Tróc, chùa Di, đền Khu Hoàng; Khu du lịch thương mại, khu du lịch sinh thái; khu vực lễ hội và khu các trò chơi dân gian với tổng diện tích quy hoạch 100ha.
Năm 2009, đền Trần Thương đã được Nhà nước quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo lớn toàn bộ kiến trúc chính: Cung Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam, hai giải vũ, giếng, đường vào đền và nghi môn với nguồn vốn trên 16 tỷ đồng. Đồng thời đầu tư cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, làm đường giao thông mới vào di tích. Tương lai không xa, trên mảnh đất này sẽ có cây cầu lớn bắc qua sông Hồng nối liền Hà Nam với các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng…Đây sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi để khu di tích Lịch sử - Văn hóa tâm linh đền Trần Thương phát huy tốt các giá trị, trở thành điểm du lịch tâm linh, tín ngưỡng quan trọng của tỉnh Hà Nam, là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước.


 

Trên lộ trình về đền Trần Thương du khách còn được tham quan các di tích cấp Quốc gia tiêu biểu: Đình Vĩnh Trụ, đình Văn Xá, đền Bà Vũ, đình Trác Nội, thăm quê hương nhà văn-liệt sĩ Nam Cao. Đền Trần Thương, điểm quy tụ để nhân dân, khách thập phương xa gần, hành hương tưởng nhớ về nguồn cội, chiêm ngưỡng di tích lịch sử văn hóa và cầu nguyện may mắn trong cuộc sống./.