Social Icons

Pages

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

GIỚI THIỆU CÔNG TY CỔ PHẦN BIỂN BẠC

Bảng vàng vinh danh "Doanh nhân Việt Nam vàng 2014"

1. Giới thiệu về công ty.

Công ty cổ phần Biển Bạc được thành lập theo giấy phép đăng ký kinh doanh số 0700 317 154 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nam cấp năm 2009.
Trụ sở chính: Số 168 Phú Gia – Thanh Nguyên – Thanh Liêm – Hà Nam.
Số điện thoại: 0919 937 112

Ra đời từ năm 2009 Với đội ngũ kỹ sư chất lượng cao và đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề luôn tận tình, chu đáo và nhiều năm kinh nghiệm... công ty cổ phần Biển Bạc Hà Nam tự hào là đơn vị hàng đầu Việt Nam chuyên cung cấp cho thị thường trong nước các sản phẩm cơ khí trong ngành xây dựng như các dòng máy gạch bê tông; máy nghiền đá, con lăn, băng tải; máy trộn và máy sản xuất gạch lát vỉa hè; các loại máy phục vụ công trình, ngoài các sản phẩm mang tính ưu việt nói trên, công ty cổ phần Biển Bạc Hà Nam còn phát triển mạnh trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh gạch bê tông và gạch lát vỉa hè.
Với phương châm tối đa hóa lợi ích cho khách hàng, công ty cổ phần Biển Bạc luôn nỗ lực phấn đấu mang đến những sản phẩm, dịch vụ có giá trị hoàn hảo nhất cho khách hàng, khẳng định thương hiệu hàng đầu ở trong nước. 
Đến với công ty cổ phần Biển Bạc Hà Nam - Quý khách luôn luôn được tư vấn về sản phẩm và dịch vụ tốt nhất về giá cả, chất lượng và đặc biệt dịch vụ sau bán hàng, với phương châm kinh doanh của chúng tôi:
UY TÍN HÀNG ĐẦU - CHẤT LƯỢNG ĐẢM BẢO - GIÁ CẢ CẠNH TRANH - BẢO HÀNH CHU ĐÁO!
Chúng tôi sẽ đem lại sự hài lòng, và sản phẩm tốt nhất cho quý khách hàng.


2. Hoạt động xã hội hóa.

Giấy khen trong công tác xã hội hóa võ thuật năm 2010

Giấy khen trong công tác "Chung tay xây dựng nông thôn mới" năm 2011


Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

BÁNH ĐA NEM LÀNG CHỀU


 

Con đường từ quốc lộ 1A, (đoạn qua tỉnh lộ 38 sang Hưng Yên) vào đến làng Chều (xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) dài chừng hơn 10 cây số. Làng Chều nổi tiếng khắp vùng cả trong và ngoài nước với sản phẩm bánh đa nem truyền thống có lịch sử hàng trăm năm.
 
Làng nghề 700 tuổi
Chúng tôi về làng Chều khi trời đã xế chiều, từng phên bánh đa nem trắng phau được người dân phơi kín quanh các đường làng, ngõ xóm. Vào những ngày nắng, không riêng gì làng Chều mà 11 trong 20 xóm của xã Nguyên Lý làm bánh đa nem, đâu đâu cũng thấy từng phên bánh đa trắng phau như thế, khắp đường làng, ngõ xóm như có hội vậy. Chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng khi được người dân nơi đây cho biết, làng Chều với nghề làm bánh đa nem truyền thống đã có lịch sử trên 700 năm.
 

Tại đình làng Chều, chúng tôi được các bậc cao niên trong làng kể lại câu chuyện về cụ tổ nghề. Nghề làm bánh đa nem xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XIV (năm 1314) do cụ tổ nghề là Trần Đình Hán chế biến từ hạt gạo, rồi đem truyền dạy lại cho dân làng. Ngày 8-2 âm lịch hằng năm là ngày giỗ tổ nghề đồng thời là ngày hướng kỵ Thành Hoàng tại đình Chều. Qua 700 năm thăng trầm, người dân làng Chều vẫn lưu giữ và duy trì và ngày càng phát triển nghề truyền thống.
 

Nem làng Chều được làm từ gạo tẻ, lựa chọn một cách kỹ lưỡng để chất lượng bánh được đảm bảo. Trải qua nhiều công đoạn, từ ngâm gạo, cho vào cối xay, làm chín qua nồi áp suất, đem phơi trên những chiếc phên tre và đoạn cuối cùng là hoàn thiện sản phẩm. Những chiếc bánh đa nem dưới bàn tay của người “nghệ sĩ” làm bánh được làm ra với màu bánh trắng, mềm và có độ dẻo cao, thơm mùi gạo. Bí quyết làm bánh đa nem được người dân trong vùng truyền cho nhau từ đời này qua đời khác. Từ nhỏ những đứa trẻ làng Chều đã được làm quen với nghề, đây có lẽ là lý do chính để nem làng Chều vẫn được duy trì, không bị thất truyền.


 Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, bánh đa nem khi đem phơi cần có đủ nắng. Nếu không, bánh sẽ ỉu và thiếu độ trắng cần thiết, nhưng nếu dư nắng, bánh sẽ cứng và nứt. Vì vậy công đoạn phơi bánh đa nem là một công đoạn khá công phu, cầu kỳ. Nghề làm bánh đa nem cũng có nhiều những khó khăn nhất định. Người dân làng Chều thường làm bánh đa nem quanh năm và thường vào những ngày nắng, tận dụng nhiệt độ ngoài trời để có thể phơi bánh đa nem.

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014

TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔN PHÁI VÕ TẠI VIỆT NAM


Môn Phái Vovinam-Việt Võ Đạo: 

Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây) được tạo nên bởi phù sa của ba dòng sông lớn: sông Nhị (Hồng Hà), sông Đà (Hắc Giang) và sông Lô; và hai nhánh sông nhỏ: sông Con (Tích Giang) bắt nguồn từ Ba Vì chảy quanh vùng và sông Đáy (Hát Giang) chạy ven địa giới phía Đông của tỉnh đã góp phần tạo cho Sơn Tây thành một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ. Bên cạnh đó, Sơn Tây còn có ngọn Ba Vì hùng vĩ. Gần Ba Vì là hệ thống núi lửa Đa Chông trùng điệp và một dãy núi đá vôi lớn ở phủ Quốc Oai (Phong Châu cũ) chiếm cứ một dãy đất rộng lớn từ bờ sông Đáy đến sông Đà. Tuy thuộc vùng châu thổ tiếp giáp với đồi núi nhưng khí hậu của Sơn Tây lại gần giống với các tỉnh vùng cao, nên người dân vừa có tinh thần khoáng đạt của người miền núi, vừa có nếp sống văn minh của cư dân các tỉnh đồng bằng. Địa linh này đã sản sinh nhiều nhân kiệt như Nguyễn Tuấn (Sơn Tinh), Bố Cái Đại Vương, Trưng Vương, Ngô Quyền, Từ Đạo Hạnh, Vũ Công Duệ, Phùng Khắc Khoan, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu... Và tại làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, ngày mồng tám tháng tư năm Nhâm Tý (ngày 24 tháng 5 năm 1912), cậu bé Nguyễn Lộc đã cất tiếng khóc chào đời. 
Ông là trưởng nam trong một gia đình có 5 người anh em (Nguyễn Thị Thái, Nguyễn Dần, Nguyễn Hải và Nguyễn Thị Bích Hà). Thân sinh là cụ ông Nguyễn Đình Xuyến và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Hòa. Gia tộc cụ ông từng sinh sống, làm ăn lâu đời tại làng Hữu Bằng. Một thời gian sau, vì sinh kế, cụ ông chuyển gia đình về Hà Nội và ngụ trong một ngôi nhà bình dị tại đường Harmand Rousseau (phía sau chợ Hôm). Khi người con trai đầu lòng cắp sách đến trường, cụ ông đã nhờ một vị lão võ sư khai tâm cho con mình những thế võ và vật dân tộc để rèn luyện sức khỏe và phòng thân. 
Ông Nguyễn Lộc trưởng thành trong thảm cảnh quê hương Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ hơn nửa thế kỷ. Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ đang bị chi phối bởi hai khuynh hướng: Một bên là hy sinh dấn thân vào con đường cách mạng cứu nước; còn một bên kia là buông mình theo lớp vỏ văn minh hào nhoáng của phương Tây mà những thú vui sa đọa, những phong trào thể thao của lớp thượng lưu trưởng giả được thực dân Pháp khuyến khích để ru ngủ các tầng lớp thanh niên. Là một thanh niên yêu nước, ông Nguyễn Lộc vô cùng đau lòng trước thực trạng quê hương. Tất nhiên, ông không bằng lòng và lên án gắt gao dã tâm của bọn thực dân thống trị và tay sai. Theo ông, một trong những yếu tố đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đến thành công là cần phải xây dựng cho người thanh niên một lòng yêu nước sâu sắc, một tinh thần tự hào dân tộc, một ý thức cách mạng, ý chí quật cường và nghị lực quả cảm; tất cả những điều đó phải được chứa đựng trong một thân thể khỏe mạnh, đanh thép, sức lực dẻo dai, chịu đựng được mọi gian khổ, có khả năng tự vệ và chiến đấu. Vì thế, ông có ước vọng góp phần nung đúc và cống hiến cho tổ quốc những người con yêu có đạo đức, ý chí quyết thắng sự hèn yếu, bạc nhược về tâm hồn và thể xác hầu vươn lên đến một lối sống tốt đẹp hơn: "Sống, giúp người khác sống và sống vì người khác." 
Mang hoài bão ấy, ngoài việc tu dưỡng đạo đức trau giồi học vấn, ông còn dành thời gian sưu tầm, nghiên cứu nhiều môn võ khác. Ngày đêm ông thường bầu bạn với nhiều loại sách báo khác nhau từ Triết học, Văn học, Sử học... đến cả Y học, Cơ thể học. Tất cả những ý tưởng quan trọng về võ học và những vấn đề liên quan đều được ông ký chú, phân loại cụ thể. Khu vực bờ đê sông Hồng từ bến Phà Đen đến Viện Bác cổ, nhà Hát Lớn đều có dấu chân ông chạy nhảy, đi quyền, múa côn... từ lúc mặt trời chưa tỉnh giấc. Ngoài ra, ông còn đến tham quan các võ đường, dự khán những trận tỉ thí võ đài hoặc mạn đàm cùng một số võ sư thời danh hầu tìm hiểu thêm các đòn thế hay, đẹp, hiệu quả của các môn võ Trung Quốc, Nhật, Xiêm, Quyền Anh... 
Qua đó, ông nhận thấy môn nào cũng có ưu điểm. Có môn thiên về cương, kỹ thuật cứng và mạnh; có môn thiên về nhu, kỹ thuật linh hoạt, khéo léo, uyển chuyển, ít dùng sức. Riêng các môn võ Việt Nam rất độc đáo, không theo cương hay nhu nhất định mà biến hóa, linh động tùy theo thể tạng mỗi người, mỗi địa phương. Do sáng tạo từ lâu đời, võ Việt Nam cũng có một số kỹ thuật không còn phù hợp với thời đại mới nhưng ông cũng nhận thấy rằng các kỹ thuật đó vẫn phát triển được những tố chất của cơ thể như thăng bằng, chính xác, khéo léo... mà con người ở thời đại nào cũng cần. Vấn đề cốt lõi là thông qua những bài bản xưa, đào sâu tinh nghĩa, tìm ra phương pháp huấn luyện mới, đáp ứng được tính dân tộc. Từ việc nhận ra thực chất của những kỹ thuật, bài võ đi đến việc nhận rõ giá trị đặc thù của từng môn võ, đồng thời đối chiếu với đặc điểm tâm lý và thể tạng của người Việt Nam: ông nhận thấy cần phải xây dựng một môn võ mang tính dân tộc, khoa học và hiện đại để giúp thanh niên có một phương pháp rèn luyện sức khỏe, tự vệ và chiến đấu mang danh dân tộc vì trong mọi cuộc chiến đấu, vấn đề tinh thần và danh dự là hai yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự thành bại. 
Với các luận cứ đó, ông Nguyễn Lộc đã lấy môn vật và võ dân tộc Việt Nam làm nồng cốt, khai thác mọi tinh hoa võ thuật đã có trên thế giới để sáng tạo một môn phái riêng đặt tên là VOVINAM (từ quốc tế hóa của cụm từ "Võ Việt Nam"). 
Khoảng mùa thu năm 1938, khi việc nghiên cứu hoàn thành, ông mang ra huấn luyện thể nghiệm cho một số thân hữu cùng lứa tuổi. Trong thời gian này, Vovinam lại được ông tiếp tục sửa chữa, bổ sung về lý luận lẫn kỹ thuật. Ngót một năm sau, ông đem lớp môn sinh đầu tiên công khai ra mắt quần chúng tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc biểu diễn thu hút đông đảo người xem và thành công rực rỡ. 
Để tạo thuận lợi trong việc truyền bá và phát triển "người con tinh thần" của mình, Sáng Tổ nhận lời mời của bác sĩ Đặng Vũ Hỷ - Hội Trưởng Hội Thân Hữu Thể Thao - tổ chức các lớp dạy Vovinam dành cho thanh niên. Lớp võ công khai đầu tiên khai giảng vào mùa xuân năm 1940 tại trường Sư phạm (École Normale) ở phố Cửa Bắc, Hà Nội. Sau đó, nhiều lớp võ liên tục được mở ra. 
Nhớ lại những sự việc có ý nghĩa sâu sắc, các môn đệ ở thời kỳ 1938-1940 thường kể lại tấm gương "uy vũ bất năng khuất" của vị Sáng Tổ môn phái. Trong buổi biểu diễn vào mùa thu 1940, có một viên chức cao cấp của thực dân Pháp là Trung tá Maurice Ducoroy chủ tọa; vì hắn ta là biểu tượng cho thực dân thống trị ngồi trên khán đài nên Sáng Tổ không cho các môn sinh "Nghiêm Lễ" (lối chào của Vovinam) khán giả như thường lệ mà đưa môn sinh vào hậu trường nghiêm mình làm lễ trước bàn thờ tổ quốc đã được lập sẵn. Giữa cuộc biểu diễn, ông Đặng Vũ Hỷ mời ông lên khán đài để Ducoroy tặng huy chương. Biết không thể từ chối, ông đành phải lên nhận, nhưng khi rời "khán đài danh dự," ông điềm nhiên gỡ huy chương bỏ vào túi và ung dung điều khiển tiếp cuộc biểu diễn. Hành động trên không những làm bẽ mặt chức quyền thực dân mà còn gây xúc động sâu xa về lòng yêu nước và ý thức dân tộc trong giới thanh niên và nhất là các môn sinh Vovinam thời đó. 
Từ đó, Vovinam luôn luôn châm ngòi cho phong trào công khai chống Pháp. Phong trào đó được phát động mạnh vào năm 1942, từ vụ đụng độ chính thức giữa hai giới sinh viên Việt-Pháp tại trường Đại Học Hà Nội và công chức tại Sở Canh Nông, đều do các sinh viên và viên chức môn sinh Vovinam chủ xướng. Vì thế, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh đình chỉ các lớp võ thuật tại trường Sư Phạm, cấm chỉ Sáng Tổ hoạt động. Đây chính là giai đoạn thử thách quan trọng nhất của môn phái Vovinam. Sáng Tổ vẫn bí mật dạy một số môn đệ tâm huyết ở nhà riêng và phát động phong trào công khai chống Pháp trong quảng đại quần chúng. 
Ít lâu sau, Vovinam cộng tác với các đoàn thể ái quốc tổ chức các ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, kỷ niệm Hai Bà Trưng, các công cuộc cứu tế xã hội, triệt hạ tượng đồng thực dân tại các vườn hoa Paul Bert, Canh Nông... Đồng thời nhiều lớp võ tự vệ được mở ra tại nhiều nơi ở Hà Nội đã thu hút hàng chục ngàn môn sinh. 
Sự hâm mộ Vovinam trong quần chúng thời đó được bộc lộ bằng những khẩu hiệu: "Người Việt học võ Việt", "Không học Vovinam không phải là người yêu nước"... Tinh thần ái quốc và tiềm lực dân tộc được khơi dậy.
Ở thời kỳ này, việc đấu tranh giành độc lập là nhu cầu bức thiết của đất nước. Do đó, kỹ thuật võ phát xuất từ nghiên cứu sáng tạo của Sáng Tổ rất đơn giản, hữu hiệu mà dễ tập, dễ áp dụng nhưng rất cương mãnh, dữ dội, đặt nặng tính tốc chiến tốc thắng với phương pháp huấn luyện chú trọng nhiều về ngoại công thân thép, tốc lực, sức chịu đựng và sức bền bỉ. Chương trình tuy có phân cấp sơ, trung, và cao đẳng nhưng không mấy ai học quá ba năm, một phần vì thời cuộc, vì nhu cầu ứng phó cấp thiết; một phần đôi lúc do nhà cầm quyền Pháp cấm cản, hàng ngũ cốt cán phải tập luyện bí mật. Các lớp võ công khai lúc bấy giờ thường chỉ kéo dài ba tháng với những đòn cận chiến đơn giản. 
Tháng 4-1945, từng đợt võ sư Vovinam được tung đi khắp toàn quốc để quảng bá và giúp cho thanh niên có một lợi khí chống xâm lăng hữu hiệu. 
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Võ Sư Sáng Tổ lãnh đạo các môn đệ cùng toàn dân tham gia kháng chiến chống Pháp. Một số môn đồ đã trở thành những chỉ huy nổi tiếng, và một số đã hy sinh cho Tổ Quốc. 
Khi Việt Minh bắt đầu thao túng cuộc kháng chiến và lộ bản chất là những con người Cộng Sản khát máu, Ông đã ngưng mọi sự giúp đỡ của Môn Phái cho Việt Minh. Với chủ trương tiêu diệt những sự chống đối, Việt Minh đã ra lệnh lùng bắt Võ Sư Sáng Tổ cùng các môn đồ. Bị lùng bắt bởi hai lực lượng đối nghịch là Việt Minh và chính quyền Pháp, Ông đã ra lệnh cho các môn đồ phân tán mỏng về các địa phương để ẩn tránh. Còn một số ít môn đồ tâm huyết theo Ông lên mạn ngược trở về quê hương ông. 
Tại làng Hữu Bằng, Sáng Tổ đã mở lớp võ cho thanh niên huyện Thạch Thất và cử môn đệ phụ trách lớp võ thuật cho Sinh Viên Sĩ Quan trường Quân Chính Trần Quốc Tuấn. Sau đó Ông lại lên đường phiêu bạt, mở rải rác các lớp Huấn Luyện cho Đại và Trung Đội Trưởng Dân Quân Du Kích ở làng Chế Lưu, Ẩm Thượng, Thanh Hương, Đan Hà, Đan Phú... 
Vào tháng 3 năm 1948, Ông xuôi Phát Diệm, đến khu ăn toàn của giáo xứ Phát Diệm. Ông cử môn đệ phụ trách huấn luyện cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Phát Diệm của Tổng Chỉ Huy Trần Thiện. 
Tháng 8-1948, Ông hồi cư về Hà Nội, tái mở những lớp võ cho thanh niên để gây dựng lại phong trào học Vovinam, kiến thiết lại đời sống xã hội, khơi lại lòng tin yêu của thanh niên trong việc tu dưỡng tinh thần và rèn luyện thân thể. 
Năm 1951, Ông cộng tác với một số nhân sĩ thành lập Việt Nam Võ Sĩ Đoàn với những lớp võ đại chúng tại sân trường Hàng Than, Hà Nội. 
Ngày 20-7-1954, Hiệp Ước Genève phân chia Việt Nam bằng vĩ tuyến 17 ra làm hai nước: miền Bắc Cộng Sản và miền Nam Quốc Gia. Đây là một cơ hội thử thách mới cho môn phái nói chung, và Sáng Tổ nói riêng. Nếu Sáng Tổ ở lại miền Bắc thì môn phái Vovinam sẽ bị khống chế bởi Cộng Sản. Nếu Sáng Tổ quyết định ra đi, tất nhiên sẽ ảnh hưởng ngay tới một số môn đệ tâm huyết vì miền Bắc là quê hương của đại đa số môn sinh ruột thịt, và sẽ bỏ lại đất Bắc một số môn đệ khác đã dày công lao đào tạo, vì các môn đệ này còn bị liên hệ nhiều tới gia đình, quyến thuộc và quê hương tại miền Bắc. Ngược lại, miền Nam vẫn còn là giải đất xa lạ, chưa được hiểu biết gì nhiều. Nếu vào Nam thì phải trả bằng một giá rất đắt: lại trở về từ khởi điểm, trong lúc Sáng Tổ mỗi ngày một lớn tuổi, các tầng lớp môn đệ cũ đã bị thời cuộc và sinh hoạt chính trị làm băng hoại rất nhiều. Vào miền Nam với chương trình xây dựng lại từ đầu, không ai có thể trắc lượng trước được những khó khăn và triển vọng trong những năm sắp tới. 
Cuối cùng Võ Sư Sáng Tổ lại một lần nữa quyết định sáng suốt: vượt lên khỏi những khó khăn, trở ngại, để quyết định vào Nam tạo dựng lại từ đầu, trong những điều kiện không thuận lợi. Vì vậy cho nên vào tháng 7-1954, Sáng Tổ cùng các môn đồ tâm huyết di cư vào Nam, mở võ đường tại đường Thủ Khoa Huân (Sài Gòn). Sáng Tổ đã cử các võ sư môn đệ phụ trách các lớp võ cho Hiến Binh Quốc Gia tại Sài Gòn và Thủ Đức... 
Giữa năm 1957, Sáng Tổ nằm bệnh phải tạm nghỉ dạy một thời gian. Ông ủy quyền cho người môn đệ trưởng tràng là Võ sư Lê Sáng tạm thời thay thế việc phụ trách các lớp võ. Tuy không trực tiếp giảng dạy Vovinam nhưng Sáng Tổ vẫn không ngừng tìm tòi, phân tích các kỹ thuật lẫn tài liệu của Vovinam, hầu phát huy môn phái. Sáng Tổ vẫn thường xuyên theo dõi các môn đệ tiếp tục hoạt động theo đường lối mà Ông đã đề ra. 
Cũng vào thời điểm này, căn cứ vào các ý niệm tiên khởi về Cách Mạng Tâm Thân do Sáng Tổ giảng dạy, Vs. Lê Sáng đã hình thành hệ thống hóa kỹ thuật võ học, lý thuyết võ đạo và đường hướng, tôn chỉ và mục đích của môn phái. Đồng thời Võ sư Lê Sáng quy tụ lớp môn đệ đã theo tập Sáng Tổ từ năm 1955, bồi dưỡng thành lớp võ sư cốt cán chung tay phát triển môn phái. 
Năm 1958, Võ sư Lê Sáng được bầu vào chức vụ Tổng Thư Ký Tổng Cuộc Quyền Thuật Việt Nam và đảm nhiệm chức vụ này cho đến năm 1968. Trong thời kỳ này, Võ sư Lê Sáng đã nghiên cứu, tìm hiểu sâu về các môn võ cổ truyền, và ông đã rút ra được tinh túy và tìm cách bổ túc, cùng chỉnh lại phần phân thế thất truyền của những bài võ xưa mà lập ra một hệ thống mới "một phát triển thành ba" cho môn phái sau này.

Nam Hồng Sơn: 


Môn phái Nam Hồng Sơn được sáng lập bởi võ sư Nguyễn Văn Tỵ, hay còn gọi là Nguyễn Tỵ. Võ sư Nguyễn Tỵ, sinh quán tại Hà Nội và đã hơn 60 tuổi, vốn là con của cố lão võ sư Nguyễn Văn Tộ, tức Sáu Tộ, người từng nức tiếng giỏi võ Ta lẫn võ Tàu tại Hà Thành và là bạn của các bậc tiền bối võ thuật Việt Nam như: Ba Cát, Hàn Bái, Cử Tốn...  
Võ sư Nguyễn Tỵ đã được bố truyền dạy võ nghệ từ năm lên 9, và lúc trai trẻ ông cũng từng dạy võ cho thanh niên tại làng Văn Hội (Thường Tín, Hà Đông). Ngoài ra ông còn là một trong những "cây guitar" sáng chói của đất Hà Thành.  
Từ năm 1984 trở lại đây, phong trào võ thuật Hà Nội được khôi phục, võ sư Nguyễn Tỵ vừa dạy đàn, vừa dạy võ. Trên lãnh vực võ thuật, trong hơn 10 năm, ông đã mở nhiều lớp dạy võ tại Hà Nội, Hà Tây với danh xưng môn phái là Nam Hồng Sơn, đồng thời đào tạo được nhiều lực lượng kế thừa có uy danh trong làng võ xứ Bắc.  
Về mặt kỹ thuật, võ sư Nguyễn Tỵ vẫn trung thành với chương trình giảng dạy của cha ông sử dụng lúc sinh thời. Ba năm đầu dành cho việc luyện tập võ Tàu gồm: tấn pháp, đòn thế, Long hổ quyền, Tứ lộ đoản quyền, Thảo mã quyền, Thượng vũ quyền, Hồng côn, Tề mi côn, Quý châu kiếm, Liên hoa độc kiếm, Liên hoa song kiếm...  
Những năm tiếp theo dành cho việc luyện tập võ Ta, với các bài như: Lão mai, Ngọc trản, Đao xung thiên... Cuối cùng là phần tập luyện khí công và nội công. Võ phục môn phái Nam Hồng Sơn màu đen, đai đẳng gồm 7 màu cấu tạo nên ánh sáng, theo thứ tự từ thấp lên cao là: đen, xanh, chàm, tím, cam, vàng và đỏ. Riêng đai đỏ dành cho HLV thì chia làm 3 cấp: nhất đẳng, nhị đẳng và tam đẳng.  
Song song với việc dạy võ, võ sư Nguyễn Tỵ vẫn đang dạy đàn guitar tại nhà riêng ở số 67, đường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đối với võ sư Nguyễn Tỵ, võ nghệ và âm nhạc tuy là hai loại hình văn hóa khác nhau, nhưng tựu trung chỉ là một, bởi cả hai thứ đều cùng là nghệ thuật cả! 

Thăng Long Võ Đạo: 


Trong lịch sử võ Việt Nam, các vùng được coi là cái nôi của võ thuật đất Bắc là Thăng Long, Hà Bắc, Sơn Tây... Những vùng đất này đã nảy sinh nhiều anh hùng hào kiệt, Trạng nguyên, Bảng nhãn, Cử nhân võ thuật. Nhiều huyền thoại trong làng võ cũng được lưu truyền từ đây. Thăng Long võ đạo là một môn phái võ mang trong mình huyền thoại đẹp, lấp lánh tinh thần yêu nước và thượng võ 
Chuyện lưu danh làng võ Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Một võ tướng của ông là cụ Cử Tốn - vị cử nhân cuối cùng của triều Nguyễn - lui về ở ẩn, mở lò dạy võ ở khu vực phố Trần Quý Cáp bây giờ. Trong lòng viên tuỳ tướng của vị quan giữ thành bất khuất đau đáu một tâm nguyện khi Tổ quốc cần sẽ lại cùng môn sinh phò vua giúp nước. Giặc Pháp coi cụ như cái gai trước mắt. Chúng hãm hại làm cụ mù hai mắt. Song, những bí kíp võ công của cụ đã được lớp truyền nhân tinh hoa như Mùi Đen, Tư Côi, Lý Đen... lĩnh hội. 
Để triệt hạ lò võ giàu tinh thần yêu nước này, giặc sắp sẵn mưu gian lập đả lôi đài treo thưởng cho võ sư ba xứ Bắc - Trung - Nam và toàn cõi Đông Dương đánh thắng thầy trò Cử Tốn sẽ được thưởng Bắc Đẩu bội tinh. Biết được âm mưu thâm độc muốn gây cảnh nồi da nấu thịt trong làng võ và để cho một số võ sư và dân chúng quên đi kẻ thù chính là giặc Pháp nhưng thầy trò cụ Cử Tốn cũng rất khó xử: không tham chiến thì quân hùng chê cười, không bảo vệ được danh dự môn phái mà thượng đài thì không tránh khỏi cảnh đầu rơi máu chảy, ân oán giang hồ. Cụ Cử cùng các môn sinh suy nghĩ lung tâm, càng đến gần ngày hạn định lòng họ càng như lửa đốt. Cuối cùng, vỏ quýt dày đã gặp móng tay nhọn... 
Hồi đó Bách thú Hà Nội có con hổ cụt đuôi khét tiếng hung dữ. Hôm thi đấu, trước sự chứng kiến của các quan chức thực dân và Nam triều một đệ tử chân truyền của cụ Cử Tốn đã vào chuồng cọp đực diễn lại tích Võ Tòng đả hổ. Mùi Đen tay không vào chuồng cọp đực, sau một hồi ác chiến đã đánh gục cọp đực, tóm gáy, bẻ chân đưa sang chuồng cọp cái và ngược lại. Những kẻ tưởng mình có mưu sâu kế hiểm đành bất lực, quần hùng ba xứ và Đông Dương thêm kính trọng cái nhân, cái trí, cái dũng của thầy trò cụ Cử Tốn. 
Hậu duệ tài năng: 
Người có cơ duyên với nghiệp võ ngay từ thời niên thiếu là võ sư Chưởng môn Nguyễn Văn Nhân. Ông thụ giáo môn Thiếu lâm gia truyền từ người ông nội là quan Thống binh của triều đình và võ cổ truyền từ ông ngoại - cụ Cử Tốn. Trước cách mạng tháng Tám ông là một thầy võ nổi tiếng vùng Lương Yên (Hà Nội). Năm 1944, ông tham gia cách mạng, gia nhập Thanh niên xung phong thành Hoàng Diệu. Tháng 8/1945, ông vào bộ đội phụ trách đại đội quân báo của Trung đoàn E41 ở Liên khu 3. Khi Hồ Chí Minh phát động Tuần lễ vàng, anh bộ đội 25 tuổi này đã biểu diễn những công năng đặc dị để quyên tiền giúp đồng bào. Trong hai cuộc kháng chiến, võ sư Văn Nhân làm công tác huấn luyện cho các đơn vị đặc biệt của Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ. Ông cũng có vinh dự được làm công tác bảo vệ một số vị lãnh tụ của nhà nước. 
Nước nhà thống nhất, do yêu cầu chung và phong trào phát triển của võ học nước nhà, lão võ sư đã tinh lọc và đúc kết nên một phương pháp rèn luyện võ thuật phù hợp với tính cách và thể tạng người Việt. Phương pháp đó dựa trên vốn liếng căn bản là tinh hoa võ thuật của dòng tộc cùng kinh nghiệm hàng chục năm ròng chiến đấu và huấn luyện võ thuật trong quân đội cũng như tiếp cận võ thuật hiện đại. Ông đã lấy tên Hà Nội cổ xưa để đặt tên cho môn phái của mình, đó là Thăng Long võ đạo. 
Thăng Long võ đạo lấy Nhu - Hoà - Nhân - Trí làm gốc, suy tôn vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn làm Thánh tổ và lấy ngày 20/8 (âm lịch) làm ngày giỗ Tổ. Các bài bản được hệ thống hoá trên cơ sở khoa học có tính đến những kiến thức y, lý. Thăng Long võ đạo lấy Thiên Long bát bộ làm bộ pháp, Yêu tự xà hành làm thân pháp, Thôi sơn quyền làm thủ pháp, thuật cường thân được áp dụng để luyện nội lực. Trong thập bát ban binh khí, kiếm pháp của Thăng Long võ đạo là lợi hại nhất, thật không hổ danh là "Thăng Long đệ nhất kiếm pháp". Ngoài quyền cước, môn sinh của Thăng Long võ đạo còn được truyền dạy và luyện tập tinh thông thập bát ban võ nghệ và các loại binh khí đặc dị của môn phái. Bên cạnh những bài quyền mang tính đối kháng cao, trong chương trình huấn luyện của Thăng Long võ đạo còn có những bài quyền dưỡng sinh chữa bệnhvà các phương pháp khí công nhập định nhằm tu dưỡng nhân cách. 
Với chương trình huấn luyện có hệ thống, có mục tiêu rõ ràng, Thăng Long võ đạo đã nhanh chóng phát triển rộng rãi trên địa bàn cả nước cũng như ở nước ngoài. Dưới sự dạy dỗ của vị cố vấn Liên đoàn võ thuật cổ truyền Hà Nội, đồng thời là chưởng môn, cố vấn của các võ đường Thăng Long võ đạo Nguyễn Văn Nhân, các đệ tử của ông như: bác sĩ - võ sư Nguyễn Văn Thắng (con trai), các võ sư Bùi Hoàng Lân, Anh Tuấn... đã làm rạng danh môn phái bằng nhiều tấm huy chương cao quý gặt hái được từ các kỳ đại hội, hội diễn và thi đấu võ thuật cổ truyền tại thủ đô và toàn quốc. Họ cũng chính là những người đang tích cực truyền bá Thăng Long võ đạo đến với lớp thanh thiếu niên và những người hâm mộ võ thuật. 

Nam Huỳnh Đạo: 


Nam Huỳnh Đạo là môn phái mới thành lập vừa tròn ba năm và đã tạo nên một "hiện tượng" trong làng võ cổ truyền TP.HCM. Nam Huỳnh Đạo đã thu hút cả ngàn người theo tập ở mọi lứa tuổi và nhiều tầng lớp xã hội. 
Có thể bắt gặp hàng trăm võ sinh "nhí" ở độ tuổi còn khóc nghêu ngao trong vòng tay mẹ, lạ chưa khi đến võ đường rất hăng say tập luyện, lại còn biết xưng hô phân biệt "huynh đệ" với nhau. Có cả những môn đồ đã bước vào giai đoạn "tứ thập nhi bất hoặc" của cuộc đời.
Người sáng lập Nam Huỳnh Đạo lại là võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt, năm nay 36 tuổi. 
Trong làng võ anh quả còn quá trẻ. Nhưng trong "nghề" anh đủ độ già dặn và chín muồi. Lên năm tuổi anh đã được cho học võ. Một người thân của anh kể hiếm thấy có ai ham thích võ như anh. Một ngày suốt năm, sáu tiếng tập và luyện công cứ thế liên tục cho đến tận ngày hôm nay. 
Cơ thể của anh cho thấy những "ấn chứng" võ công kỳ diệu của một người khổ luyện theo một con đường đúng đắn: lưng qui, cổ rắn, tay hạc... Nhìn vóc dáng đồ sộ của anh, một cao thủ đã vỗ vai nói đùa: "Tập võ mà để cho thân hình to lớn, dềnh dàng như vậy là chưa đi tới đỉnh". Thế nhưng khi cả hai vào cuộc so kình, với nội lực kinh người anh đã phát kình hất người bạn võ có khối lượng hơn 90kg này văng xa mấy thước. 
Là hậu duệ đời thứ 7 của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Huỳnh Đức (tên thật là Huỳnh Tường Đức), Huỳnh Tuấn Kiệt được lựa chọn làm người kế thừa dòng võ Huỳnh gia vốn được lưu giữ nhiều đời trong tộc họ. Dòng họ Huỳnh nổi tiếng ở Long An không chỉ về sự giàu có mà còn về y võ và nho học. 
Thân phụ của Kiệt là cụ Huỳnh Văn Khanh, người dịch bộ sách nổi tiếng Hoàng Hán y học của bác sĩ Thang Bản Cầu Chân (Nhật Bản). Tiến sĩ Huỳnh Quốc Thắng, người anh trai lớn trong nhà, có lần qua Trung Quốc đến "Đồng nhân đường Thái y viện" tại Bắc Kinh thấy bản dịch tiếng Việt của tác phẩm y học nói trên được trưng bày chung với nhiều bản dịch các thứ tiếng khác. Sự đóng góp của lương y Huỳnh Văn Khanh đối với ngành đông y được đánh giá rất cao. 
Ông nội Huỳnh Văn Chánh ngày xưa ở quê nuôi nhiều người làm, trong đó có một số người Hoa giỏi võ. Cảm kích trước sự đối đãi, họ đã không ngần ngại đem tâm huyết và tinh hoa trao lại cho phái võ họ Huỳnh. Sự tiếp thu này đã dẫn đến sự dung hợp hai dòng võ. 
Kế thừa và tiếp nối truyền thống, võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt đã tiếp thu tinh hoa của nhiều dòng võ khác như Nội gia Thiếu Lâm, Hồng gia La Phù Sơn... và chính thức khai môn võ phái Nam Huỳnh Đạo. Võ sư Lê Kim Hòa, phó chủ tịch Liên đoàn Võ thuật cổ truyền VN, đánh giá: "Mặc dù mới chính thức danh xưng nhưng trước đó Nam Huỳnh Đạo đã có nhiều đóng góp cho chương trình chung của võ thuật cổ truyền thành phố, đào tạo được nhiều võ sinh có trình độ võ thuật và đạo đức. 

Hoa Quyền: 


Một tay cầm chiếc quạt kim loại uyển chuyển trong các thế công thủ; tay kia yểm tâm lúc trợ lực cùng đòn quạt, còn hai chân di chuyển tới lui vô cùng linh hoạt và bất thần nhún người nhảy lên tung cú đá song phi chớp nhoáng... Đó là những hình ảnh gây cho khán giả một ấn tượng đầy ngạc nhiên và thích thú về lão võ sư Hoàng Thanh Vân trong lần diện kiến. 
Không ngạc nhiên và thích thú sao được khi một "cụ già" đã quá tuổi "thất thập cổ lai hi", với vóc người dong dỏng cao và gầy, lại có khả năng diễn quyền vừa đẹp mắt vừa phát lực và còn thực hiện được cú đá song phi tuyệt vời nữa! 
Sinh năm 1922 tại Hưng Yên, trong một gia đình có truyền thống thượng võ, cha của lão võ sư là ông Hoàng Văn Thơ vốn là nông dân nghèo phải đi làm thuê ở nhiều nơi vùng Bắc bộ để kiếm sống, nhờ đó mà ông đã có dịp học võ với nhiều thầy (người Việt, người Hoa) ở các vùng khác nhau. Đến khi ông truyền dạy sở học võ thuật của mình lại cho lão võ sư Hoàng Thanh Vân khoảng từ năm 1930 đến năm 1950, ông bảo rằng đó là võ thuật Hoa Quyền của dòng họ Hoàng. Lão võ sư cứ theo đó mà gọi môn phái của mình là Hoa Quyền suốt. 
Môn phái Hoa Quyền có phần cơ bản công phu rèn luyện "thập hình" (thủ, nhãn, thân, yêu, túc, thức, đảm, khí, kình, thần) với quỹ thời gian khoảng 3 năm. Sau đó, môn sinh sẽ bắt đầu được truyền thụ 18 bài Hoa Quyền, cùng các loại binh khí như: kiếm, côn, đao, song ngư, lưỡng đầu thiết lĩnh, cửu khúc nhuyễn tiên, song phủ (búa), song chùy, thiết phiến (quạt), và các bài đối luyện có qui ước (tay không và vũ khí). Đặc biệt, trong vốn liếng sở học võ thuật của môn phái Hoa Quyền, lão võ sư còn cho biết có những bài võ truyền thống Việt Nam như: Ngọc trản, Lão mai, Thần đồng, Xung thiên đạo đao, Gươm trường thảo pháp và ba bài côn. 
Trong phong trào võ thuật cổ truyền tại Hà Nội từ sau 1975, lão võ sư đã có những đóng góp nhất định trong việc đào tạo nhiều môn sinh giỏi, đạt những thành tích cao trong các giải võ cổ truyền tổ chức tại Hà Nội trong những năm qua. Bản thân lão võ sư cũng đã từng đoạt huy chương vàng trong một lần dự giải. Ngoài ra, năm 1990, lão võ sư đã được mời sang Cộng hòa liên bang Nga để truyền dạy võ thuật. 
Hiện nay, mặc dù tuổi đã cao, nhưng lão võ sư Hoàng Thành Vân vẫn thường xuyên tập luyện cũng như truyền dạy cho các thế hệ trẻ tại nhà riêng của mình ở số 39, phố Quang Trung, gác 3, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. 

Lâm Sơn Động: 


Cụ tổ bảy đời là người văn võ kiêm toàn tại xứ Đoài - Hà Tây sau khi sinh con đời nọ đến đời kia đều kế thừa được các tinh hoa võ học. 
Trải qua thời gian nối tiếp các thế hệ đã phát minh tìm hiểu thời cuộc của xã hội. Đặc biệt áp dụng võ học phương đông và đi sâu vào nghiên cứu khí công tới bậc uyên thâm. Đến đời thứ tư đã chắt lọc và đúc kết các môn luyện khí công như tĩnh công, động công, huyền công theo: trí, lực, năng tâm, thiện. 
Những năm thánh đất nước còn đang dưới ách thống trị, phong trào truyền bá bị hạn chế. Ngoài con cháu trong dòng tộc đến đời thứ 5 hai cụ luyện võ cùng jnhâu từ nhỏ lớn lên được phép của thầy hai cụ đã xây dựng gia đình với nhau và sinh ra được 4 người con: 3 trai và một gái. Cụ ông đã qua đời năm 1944 người cốt lõi còn gửi lại được môn võ là cụ bà đó là bà Nội. 
Những năm thánh đất nước còn đang dưới ách thống trị, phong trào truyền bá bị hạn chế. Ngoài con cháu trong dòng tộc đến đời thứ 5 hai cụ luyện võ cùng jnhâu từ nhỏ lớn lên được phép của thầy hai cụ đã xây dựng gia đình với nhau và sinh ra được 4 người con: 3 trai và một gái. Cụ ông đã qua đời năm 1944 người cốt lõi còn gửi lại được môn võ là cụ bà đó là bà Nội. 
Do đất nước còn loạn lạc cụ không truyền được hết cho con đến năm 1966 thì con trai thứ ba của cụ đã sinh được người con thứ 5 đó là cháu Lương Ngọc Huỳnh tới năm 1969 cụ bắt đầu truyền bá đạo hạnh cho cháu nội từ thủa lên 3 đó là võ thuật và âm nhạc. Khi Ngọc Huỳnh ra đời cụ thường nói đây là đứa cháu duy nhất có thể kế thừa nghiệp võ mà cụ đang ấp ủ. Ngọc Huỳnh rất có tài tông minh chăm học và đến năm 1972 mới 6 tuổi Ngọc Huỳnh đã cùng cha mình với cây đàn bầu phục vụ khắp nơi nghê tin Ngọc Huỳnh có tài từ nhỏ phái đoàn chỉ huy mặt trận quân sự phía nam đan mời Ngọc Huỳnh cùng cha biểu diễn phục vụ Quốc Hội tại nhà hát lớn Hà Nội năm 1973 được bã Tôn Đức Thắng và bác trung tướng Vương Thừa Vũ và bác tướng Song Hào phong tặng danh hiệu nghệ sĩ tí hon và phát thanh cho cả hai miền đất nước nghe bài (Vì Miền Nam) tiêu chí quyết tâm của Ngọc Huỳnh lúc này thường mơ ước về sau phải được làm nghệ sĩ và võ sí và đã lôi nốt cậu em trai mình là Nguyên Ngọc Hải sinh năm 1969 cùng tập luyện dưới sự chỉ dẫn tận tuỵ của bà nội. 
Tuổi bà nội mai mốt già đi và tạ thế năm 1982 trong một đêm mùa thu. Ngọc Huỳnh đã nắm được hầu hết những tinh tuý từ bà nội và đã tiếp tục sự nghiệp học hỏi và truyền thụ cho em trai là Ngọc hải, năm 1989 sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự Ngọc Huỳnh tiếp tục học hỏi y học và võ thuật nâng cao kiến thức được các đội công an xã, huyện, lân cận mời dạy võ và được sở TDTT Hà Tây mời làm công tác viên võ thuật lấy tên là võ thuật dân tộc Hà Tây. Sau khi đúc kết các tinh hoa môn phái Lâm Sơn Động bắt đầu ra đời ngày 23/9/1990 do võ sư Lương Ngọc Huỳnh sáng lập được sở TDTT cho phép truyền bá toàn tỉnh và các tỉnh lân cận, số võ sinh và số người theo học ngày càng đông lên tới hàng vạn tại các trung tâm TDTT các huyện thị. 
Đến nay môn phái đã phát triển sang các nước như Nga, Mỹ, Pháp và có Tổ Đường tại thôn Dương Cốc xã Đồng Quang huyện Quốc Oai - tỉnh Hà Tây và Tự Đường tại Km9 đường 21A Xuân Mai - Sơn Tây do võ sư Nguyễn Ngọc Hải quyền trưởng môn phái điều hành và huấn luyện đào tạo. 

Hóa Quyền Đạo - Phakwondo:  


Võ Phái Hóa Quyển Đạo là một môn phái khá đặc biệt do sự hình thành qua nhiều đời nghiên cứu và đúc kết .  
I-Xin trình bày về ý nghĩa của tên võ phái Hoá Quyền Đạo PHAKWONDO  
Hóa = sự biến hóa,sự tiến hoá,  
Nói lên sự biến hóa của vũ trụ ,tiến hoá của xã hội,và sự hóa thành trong võ thuật ,mà sự tiến hóa đã trãi qua mọi thời đại cho đến nay .Để phù hợp với cuộc sống với sự kết nối tập trung hoá các yếu tố trên cơ bản nguyên lý, đến sự phát triển hoá của các yếu tố ,trong sự hoàn chỉnh khoa học hóa.đó là tôn chỉ của võ phái Hoá Quyền Đạo ,với các quan niệm trên ,với ý tưởng con người phải có sự hiểu biết thông minh, tính toán  
Quyền = Quyền thuật ,quyền hành.  
Quan niệm quyền thuật trong võ pháI Hóa Quyền Đạo là thuật pháp của quyền dựa trên các nguyên lý Dịch Lý biến hoá và vận hành theo sự quyền hành (ý) của võ sinh và võ sinh đó sẽ vận hành các kỷ năng của quyền pháp đuợc theo như ý.  
Đạo = đạo lý,đạo hành .  
Đạo là con đường dẩn dắt các hành giả đi tới mục đích của võ học  
Với những ý nghĩa trên con đường của hành giả phải nắm bắt là tập trung hóa các nguyên lý võ học sau đó phát triển hoá các nguyên lý võ học đó ra và khoa học hoá hoàn chỉnh thực tế các quyền hành(là người hành giả phải tự triển khai quyền hành ,chứ không phải là người phải đi học thuộc lòng những nguyên lý võ học đó) vận dụng nguyên lý võ học đó.Với con đường phải hoàn chỉnh của võ học là Võ Công - Võ Thuật - Võ Chiến - Võ đạo.  
Nền Tảng Nguyên Lý Của Võ Phái Hoá Quyền Đạo : Xin giới thiệu qua huy hiệu của Võ Phái :  
- Bàn Tay biểu hiệu nắm Âm dương và Ngủ hành(năm ngón).  
- Huy hiệu được trình bày biểu hiệu các ý đồ về Vô cực-Thái cực - Lưỡng Nghi - Tam Tài - Tứ Tượng - Lục Hợp - Thất Tinh - Bát Quái - Cửu cung.(Tập trung hoá-Phát triển hóa-Khoa học hoá)  
- Hội các yếu tố trong Võ Học là : Võ Thuật-Võ Chiến-Võ Công-Võ Đạo.  
- Vô Cực : là các vòng đão biến hóa vào các kỷ thuật hoán lực (đổi lực) ,biến hoá...  
- Thái Cực : Vòng lưu xoắn ốc ứng dụng vào các kỷ thuật lưu ...  
- Âm dương : Âm dương là sự chuyển hóa của 2 mặt trong võ thuật như :cương nhu, phù trầm,khai hợp,tấn thối,hư thực ,trường đoản,nhanh chậm,trực hoành,công thủ v.v...  
- Tam tài : Là phân ra làm 3 bực Thượng Hạ Trung ,hoặc là Thiên thời Địa lợi Nhân hòa .là kỷ thuật phối hợp của Thân Thủ Bộ,của Tam Quan ...  
- Tứ Tượng : là kỷ thuật căn bản của 1 động tác phân thành 4 kiểu...  
- Ngũ hành : Là sức mạnh của Kim Mộc Thũy Hỏa Thổ tương ứng với:  
Kim phế,mộc can,thũy thận,thổ tỳ,hoả tâm  
Thần khí cốt lực tinh  
Cương nhu dũng trí tịnh...  
- Thất Tinh : là âm dương ngũ hành phối triển  
- Bát Quái : là quẻ càn khãm cấn chấn tốn ly khôn đoài được biểu hiện qua tám vạch biểu hiện cho tám hướng.  
+ Trong bát quái được phân ra bát hướng là:  
- 4 hướng chính (trên,dưới,trái,phải): là hướng thẳng là hướng cương  
- 4 hướng nghiên (xéo 4 hướng chính) : là hướng xéo là hướng nhu  
- Cửu Cung: là 9 vùng phân định các cung vị ,để hoàn thiện các kỷ thuật  
- Vạn Tượng : được phân hóa thành các bài Tượng Hình Ý Quyền theo trình độ kỷ thuật và biến hóa theo cãm giác riêng của mổi người..  
- Lâm Ba : là tầm số ,chử số,hình số là kỷ thuật đặc biệt của Hóa Quyền Đạo do Sư Trưởng Đổ Phi Long sáng chế dựa theo nguyên tắc cửu cung bát quái và số học .Với quan niệm con người phải có kỷ thuật của con người trong võ thuật, phải tính toán trong võ thuật, thì mới là đặc tánh của con người có trí tuệ khôn ngoan.  

THÔNG BỐI QUYỀN "DÀI THÊM MỘT TẤC, MẠNH THÊM MỘT TẤC"

Thông bối quyền  là một bộ môn quyền thuật của võ thuật Trung Hoa. Ra đời tại Trung Quốc khá sớm, tương truyền từ thời nhà Tống dưới triều của Tống Thái tổ Triệu Khuông Dẫn đã có vị danh tướng là Hàn Thông Hựu rất giỏi kỹ kích của Thông Bối quyền và tiếng tăm khắp dải Hà Bắc.

Thông Bối quyền có lịch sử phát triển từ rất lâu đờiSau này các môn đồ Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam đã tích hợp và cải biến theo phong cách Thiếu Lâm quyền và gọi tên là Thông tý quyền gồm hai quyền lộ: Tiểu Thông Tý quyền và Đại Thông Tý quyền có nội dung kỹ pháp hoàn toàn khác biệt với Thông bối quyền lưu truyền trong dân gian.
Về mặt ý nghĩa của quyền “Thông bối” trong Thông bối quyền thì bối là lưng và tý là tay đều bao hàm cùng nghĩa, lấy sự thông suốt giữa tay và lưng làm chủ tựa như không có nguyên tắc khác nhau. Thông bối quyền phần lớn nhấn mạnh và lấy lưng vượn (viên bối) hay tay vượn (viên tý) để thủ thế nên xưa còn gọi là “Thông bối viên hầu” (suốt lưng khỉ vượn), “Bạch viên Thông tý” (Vượn trắng suốt tay).
Theo Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung Quốc thống nhất tên gọi là Thông bối quyền bao gồm sự kết hợp Thông bối quyền trong dân gian và Thông tý quyền của Thiếu Lâm quyền. Do đó Thông tý quyền của chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (với hai bài Tiểu Thông tý quyền và Đại Thông tý quyền) có nội dung không giống hoàn toàn Thông bối quyền của viện và Thông bối quyền đang lưu truyền trong dân gian.
Thông bối quyền lưu truyền khá rộng, lưu phái cũng lắm. Từ Bạch Viên Thông bối ra, còn Ngũ Hành Thông bối, Lục hợp Thông bối, Phách quải Thông bối, Lưỡng Dực (hai cánh) Thông bối, Thông bối 24 thức v.v… Lưu truyền tương đối sớm nhất ở Sơn Tây là Hồng Động Thông bối cũng là một lưu phái thuộc hệ thống Thông bối quyền.
 

Thông Bối quyền trú trọng đánh tầm xa
Về tên gọi thì có 3 cách gọi tên:
Thông tý quyền: tý là tay. Gọi là tý vì ám chỉ việc sử dụng cánh tay là chính, các động tác thủ pháp (đòn tay) thường chuyển động theo vòng tròn theo hai bên hông trông như tay vượn vươn ra ngoài.
Thông bối quyền: bối là bối tích tức chỉ vùng lưng. Gọi là bối bao hàm ý nghĩa là tay quyền phải liên thông và phát kình lực từ lưng, tay và lưng thông nhau một dải khi xuất thủ tấn công để có thể vươn dài ra đến cự ly xa.

Thông bị quyền: bị tức là chuẩn bị. Gọi là bị vì hình ý thông thần đạt hóa, giữa thể (phần bài tập) và dụng (phần thực hành) kiêm bị đầy đủ.
Đặc điểm kỹ pháp
Ba cách gọi này tam hành cùng tồn tại cho đến năm 1983 trong phiên bản mới nhất của tài liệu Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư đã thống nhất tên gọi Thông Bối quyền vì tên gọi này thể hiện hết nội dung phong cách, đặc điểm của nó là kình lực liên thông một dải eo lưng và tay. Trong dân gian có nhiều tên gọi khác nhau cùng tồn tại tùy theo đặc điểm phong cách từng vùng.
Thông Bối quyền thuộc loại quyền pháp trường kích (đánh trường trận, tầm xa) điển hình nhất trong tất cả các loại quyền pháp thuộc miền Bắc Trung Hoa, chú trọng tầm xa đánh rộng, chủ về tấn công cự ly xa dựa trên nguyên tắc nhất thốn trường, nhất thốn cường nghĩa là dài thêm một tấc, mạnh thêm một tấc trong các môn phái võ Trung Hoa lên đến đỉnh cao nhất.


Trong vấn đề khống chế khoảng cách và không gian chiến đấu, đấu pháp sở trường của Thông Bối quyền là viễn tắc trường kích, cận tắc lãnh trừu nghĩa là xa thì đánh dài, gần thì rút ngắn, có thể phóng có thể thâu, có thể dài có thể ngắn.
2 nhà sư biểu diễn Thông Bối quyền
Thông Bối quyền lưu hành đến nay đã hình thành nên rất nhiều lưu phái phong cách đa dạng, nội dung kỹ pháp phong phú, quyền thuật và khí giới đều hoàn chỉnh trên nguyên tắc phóng trường kích viễn nghĩa là di chuyển dài và đánh tầm xa.
Đặc điểm kỹ pháp của thông bối quyền là: thế thức động tác mở rộng khép lớn, liên hoàn dày đặc, vươn hông hất lưng (yêu bạt bối), phóng dài đánh xa, lắc bả vai rung cổ tay, phát kình lãnh đạm, đánh đòn nhanh nhẹn âm thanh vang lừng, né tránh linh hoạt, bộ pháp khép chân, mắt ưng thần vượn, khí thế hoàn chỉnh.
Các lưu phái chủ yếu là: Bạch Viên Thông bối quyền, Kỳ Thị Thông bối quyền, Ngũ Hành Thông bối quyền, Lưỡng Dực Thông bối quyền, Hồng Động Thông bối quyền, Ngũ Hầu (5 khỉ) Thông bối quyền, ngoài ra còn có Hoạt Diệp Thông bối quyền, Phách quải Thông bối quyền, Thái Cực Thông bối quyền,v.v…
Ở Trung Quốc ba vùng Đại Liên, Thương Châu và Bắc Kinh thịnh hành Ngũ Hành Thông Bối quyền và Bạch Viên Thông Bối quyền.
Một bài biểu diễn của Thông Bối quyền:


Thông Bối quyền thuộc loại quyền pháp trường kích (đánh trường trận, tầm xa) điển hình nhất trong tất cả các loại quyền pháp thuộc miền Bắc Trung Hoa, chú trọng tầm xa đánh rộng, chủ về tấn công cự ly xa dựa trên nguyên tắc nhất thốn trường, nhất thốn cường nghĩa là dài thêm một tấc, mạnh thêm một tấc trong các môn phái võ Trung Hoa lên đến đỉnh cao nhất.

 

Trong vấn đề khống chế khoảng cách và không gian chiến đấu, đấu pháp sở trường của Thông Bối quyền là viễn tắc trường kích, cận tắc lãnh trừu nghĩa là xa thì đánh dài, gần thì rút ngắn, có thể phóng có thể thâu, có thể dài có thể ngắn.
Thông Bối quyền lưu hành đến nay đã hình thành nên rất nhiều lưu phái phong cách đa dạng, nội dung kỹ pháp phong phú, quyền thuật và khí giới đều hoàn chỉnh trên nguyên tắc phóng trường kích viễn nghĩa là di chuyển dài và đánh tầm xa.
Đặc điểm kỹ pháp của thông bối quyền là: thế thức động tác mở rộng khép lớn, liên hoàn dày đặc, vươn hông hất lưng (yêu bạt bối), phóng dài đánh xa, lắc bả vai rung cổ tay, phát kình lãnh đạm, đánh đòn nhanh nhẹn âm thanh vang lừng, né tránh linh hoạt, bộ pháp khép chân, mắt ưng thần vượn, khí thế hoàn chỉnh.
Các lưu phái chủ yếu là: Bạch Viên Thông bối quyền, Kỳ Thị Thông bối quyền, Ngũ Hành Thông bối quyền, Lưỡng Dực Thông bối quyền, Hồng Động Thông bối quyền, Ngũ Hầu (5 khỉ) Thông bối quyền, ngoài ra còn có Hoạt Diệp Thông bối quyền, Phách quải Thông bối quyền, Thái Cực Thông bối quyền,v.v…

 
Thông Bối quyền là một môn võ xuất xứ từ chốn dân gian ở miền Bắc Trung Hoa và ban đầu không phải của Thiếu Lâm, đây là môn võ thuần chủng nội địa được sản xuất tạiTrung Hoa đại lục (made in China), nhưng lại không được người đời sau xếp vào Nội gia quyền thì mới biết là sự phân chia võ phái Nội gia và Ngoại gia là không có cơ sở thống nhất rõ ràng mà do quan điểm và ý thích cá nhân.
Sự phát triển của Thông Bối quyền do vậy cũng lưu hành trong dân gian, không hề có sự tham gia của các võ quan trong chốn quan trường như một số môn võ khác (chẳng hạnPhiên tử quyền, Ưng trảo quyền và Hình Ý Linh Thú quyền của Nhạc Phi, một danh tướng thời Nam Tống hay như Yến Thanh quyền và Bát quái chưởng cũng đã từng lưu lạc trong chốn quan viên).
Trường võ thuật dạy Thông Bối quyền đầu tiên là Trung Ương Quốc Thuật Quán thành lập tại Nam Kinh năm 1928 bởi Tưởng Giới Thạch sau vụ các thuộc hạ của ông ta phóng hỏa đốt chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam [1]. Người chủ nhiệm chương trình này là Thượng tướng lục quân Trương Chi Giang dưới thời Trung Hoa Dân Quốc, từ đó võ thuật Trung Quốc mới được vinh danh là Quốc thuật. Sự thành lập tổ chức này đã đẩy phong trào luyện võ lên cao chưa từng thấy trong lịch sử võ thuật Trung Hoa và kéo dài cho đến thời kỳ sau này của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa do Đảng Cộng Sản Trung Quốc lãnh đạo.
Trong thời kỳ hưng thịnh của Trung Ương Quốc Thuật Quán, cơn sốt võ thuật lan rộng khắp Trung Hoa, nhiều cuộc khảo thí các bộ môn quyền thuật được tổ chức khắp nơi, Thông bối quyền và các môn quyền thuật khác cũng được phát triển mạnh trong thời kỳ này. Danh gia Tu Kiếm Si người tỉnh Hà Nam được mời làm trọng tài Quốc thuật năm 1933, ông vừa làm trọng tài vừa truyền thụ Thông bối quyền nhiều năm làm cho Thông bối quyền trở nên phát triển rộng ra sau này.
Sau khi nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được thành lập (1949), võ thuật (Wushu) được Đảng Cộng Sản Trung Quốc và nhà nước coi trọng và xem là tài sản văn hóa của quốc gia, các chương trình huấn luyện và tổ chức thi đấu được đưa vào phạm vi chương trình giáo dục thể thao toàn quốc. Thông bối quyền chính thức được đưa vào nội dung thi đấu các bộ môn quyền thuật truyền thống.
 

Năm 1977 Thông bối quyền được đưa vào mục thi đấu võ thuật truyền thống toàn quốc. Năm 1980, võ thuật được phân loại thành các nhóm bộ môn quyền thuật và xếp theomục tổ chức thi đấu theo loại nhóm quyền, có hai nhóm được phân chia ra theo truyền thống võ thuật Trung Hoa cổ điển: Trường quyền gồm các môn quyền của miền Bắc vàNam quyền gồm các môn quyền của miền Nam. Thông bối quyền, Phách quải quyền, và Phiên tử quyền có phong cách giống nhau nên được phân loại vào mục thi đấu thứ hai (thi đấu theo nhóm quyền), động tác được chỉnh lý qui phạm hóa theo qui định của Qui tắc thi đấu võ thuật của Ủy ban Thể dục Thể thao Toàn quốc.
 

Từ năm 1980 trở đi, Thông bối quyền được phát triển theo hai hướng: một là xuất phát từ võ thuật truyền thống được phát triển và lưu truyền trong dân gian, hai là phát triển theo hướng nâng cao hiệu suất biểu diễn nghệ thuật để tạo ấn tượng trong thi đấu bài quyền chính thức, tức là các Sáo lộ (Taolu), hai hướng này dần dà xa cách nhau về ý thức chủ đạo, kết cấu bài quyền và kỹ thuật, cũng như mục đích huấn luyện. Hiện tượng này không chỉ xảy ra đối với Thông bối quyền mà ở tất cả các bộ môn quyền thuật khác.
Còn tiếp …
Tô Thiện (sưu tầm)

LỰC SỸ PHẠM VĂN MÁCH LẦN THỨ TƯ VÔ ĐỊCH THẾ GIỚI


'Kiến càng' Phạm Văn Mách cùng lực sỹ Nguyễn Văn Lâm mang về hai tấm HC vàng cho thể hình Việt Nam tại giải vô địch thể hình & fitness thế giới 2014.
Phạm Văn Mách mất chức vô địch châu Á / Phạm Văn Mách đã 'mơ về ngôi nhà và những đứa trẻ'
Giải năm nay diễn ra tại thành phố Mumbai (Ấn Độ) từ ngày 5 đến 10/12, thu hút sự tham gia của 400 vận động viên đến từ 45 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đoàn Việt Nam góp mặt với sáu lực sỹ Phạm Văn Mách, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Anh Thông, Nguyễn Thị Mỹ Linh, Dương Hồng Ngọc và Trần Thị Cẩm Tú.
Kết thúc năm ngày tranh tài, tuyển Việt Nam thắng lớn với hai HC vàng, một HC bạc, 2 HC đồng. 
Sau bốn năm lỡ hẹn, lực sỹ Phạm Văn Mách trở lại ngôi cao nhất ở hạng sở trường 55 kg. 
Lực sỹ thể hình Phạm Văn Mách lần thứ tư trong sự nghiệp đứng trên đỉnh cao thế giới ở hạng cân 55 kg nam. Ảnh: An Nhơn.
Năm 2013 tại Hungary, "kiến càng" đăng ký hạng 60 kg và chỉ về nhì. Trở lại nội dung 55kg, lực sỹ từng bảy lần vô địch châu Á có bài thi hoàn hảo thuyết phục ban giám khảo để giành HC vàng. Đây là lần thứ tư trong sự nghiệp, lực sỹ quê An Giang đăng quang ngôi vô địch thế giới sau các năm 2001, 2009 và 2010.  
Tấm HC vàng còn lại thuộc về lực sỹ Nguyễn Văn Lâm ở hạng 65 kg, sau khi đoạt HC bạc hạng 70 kg năm ngoái. Nhà vô địch thế giới 2013 Nguyễn Anh Thông không bảo vệ thành công ngôi vô địch hạng 60 kg khi chỉ đứng thứ hai tại giải năm nay.
Ngoài thành tích xuất sắc của ba vận động viên này, thể hình Việt Nam còn đoạt thêm hai HC đồng của Nguyễn Thị Mỹ Linh (hạng cân 55 kg nữ) và Trần Thị Cẩm Tú (fitness dành cho VĐV nữ có chiều cao đến 1,60 met). 
Anh Tuấn

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH CÔNG CÁ "TRỐI" HÀ NAM


Theo Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Nam, thông qua việc thực hiện dự án "Nghiên cứu bảo tồn, ứng dụng và phát triển loài cá trối tại thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam", loài cá trối quý hiếm của địa phương đã được bảo tồn và phát triển thành công.
Cá trối là một loài cá quý hiếm, đặc hữu có tại đầm Tam Chúc, nằm ở vị trí giáp ranh giữa thị trấn Ba Sao và xã Khả Phong, huyện Kim Bảng, Hà Nam.
Cá trối có hình  dáng bên ngoài giống cá quả, không có vây bụng. Gốc vây đuôi của cá trối có đốm tròn đen với vành trắng bao quanh như hình con mắt, đầu dẹp bằng, đỉnh đầu rộng và bằng thuôn về hai phía.
Cá có màu xanh hoặc xám hồng, phần lưng thẫm hơn, bụng trắng nhạt; có những con có nhiều hạt đốm trắng, vàng nhỏ phân bố dọc theo thân từ mang xuống đuôi.
Không những có hình dáng, màu sắc đẹp, thịt cá trối còn rất thơm, ngọt và không có xương dăm.
Do môi trường sống thay đổi và bị khai thác bừa bãi nên nguồn cá trối trong tự nhiên đã bị cạn kiệt.
Nhận thấy tính cấp thiết của việc bảo tồn, khôi phục một giống cá quý của địa phương, góp phần làm phong phú hơn nguồn lợi thủy sản tự nhiên, từ năm 2011, Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nam đã triển khai thực hiện dự án “Nghiên cứu bảo tồn, ứng dụng và phát triển loài cá trối tại thị trấn Ba Sao, Kim Bảng.”
Đến nay, đơn vị đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu và nội dung đề ra trong dự án như điều tra nghiên cứu hiện trạng nguồn lợi, vùng phân bố tại đầm Tam Chúc, thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng và xác định được tên loài trong hệ thống phân loại cá trối Hà Nam.
Những người thực hiện dự án cho biết hệ số thành thục cá trối trong ao nuôi nước tĩnh cao nhất vào tháng 4-5 và thấp nhất vào tháng 8-9; thuần hóa đàn cá thu gom ngoài tự nhiên đạt 76,7% và nuôi vỗ thành thục, cá phát dục tốt.
Đặc biệt, những người thực hiện dự án đã nghiên cứu thành công phương pháp sinh sản nhân tạo cá trối với tỷ lệ cá đẻ 67,5% (cộng trừ 12,5%); tỷ lệ trứng thụ tinh đạt 61,7% (cộng trừ 2,9%); tỷ lệ nở 48,17% (cộng trừ 11,83%).
Số lượng cá bột thu được là 2.167 con; ương cá bột lên cá hương và từ cá hương lên cá giống đạt tỷ lệ trung bình 66,25%.
Ông Trần Thăng Long, Trưởng phòng Quản lý Khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nam cho biết sau hơn ba năm thực hiện, thành công lớn nhất của dự án là đã thực hiện được phương pháp sinh sản nhân tạo giống cá trối - yếu tố quyết định đến việc bảo tồn nguồn giống; đồng thời xác định được vùng phân bố của cá trối trú ngụ chủ yếu trong khe đá, nước sạch, trong.
Đặc biệt qua các xét nghiệm, phân tích, nghiên cứu, có thể công bố tên loài cá đặc hữu thuộc vùng núi huyện Kim Bảng - cá trối Hà Nam (tên khoa học là Channa hanamensis).
Không những có giá trị về mặt khoa học, cá trối còn là loài đặc sản cho giá trị kinh tế cao. Nếu được đầu tư hợp lý, cá trối sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn cho người nuôi./.

BÀI "VÈ" ẨM THỰC HÀ NAM - VI DEO GIỚI THIỆU CÁ KHO LÀNG VŨ ĐẠI