Social Icons

Pages

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

LỄ HỘI ĐỀN TRẦN THƯƠNG


Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đền là di tích tiêu biểu của tỉnh Hà Nam và cả nước, hội tụ nhiều giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật, tâm linh, lâu nay được nhiều người biết tiếng. Đền thờ vị anh hùng dân tộc Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng gia quyến và các Bộ tướng có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII.

Giá trị lịch sử - văn hóa đền Trần Thương.


 

Trần Thương là mảnh đất địa linh, trù phú như câu ca truyền đời “Cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc ghi trên bức châm tại đền: “Trần Thương dư phúc địa, trà thảo tứ thời xuân” (đất Trần Thương lắm phúc, hoa quả bốn mùa xuân). Trước đây, Trần Thương là trung tâm “Lục khê đầu” (sáu khe nước). Từ đây có thể ngược sông Hồng đi Thăng Long rồi ra biển, qua sông Hồng về phía Đông khoảng 3km là khu Tam Đường (Hưng Hà, Thái Bình), nơi đặt lăng mộ của nhà Trần, về phía Nam khoảng 20 km là đền Trần – chùa Tháp (Nam Định).
   


Đền Trần Thương là một trong 3 ngôi đền lớn của cả nước, nơi thờ chính Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tương truyền trên đường đi đánh quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo thấy địa thế nơi đây hiểm yếu, bèn đặt 6 kho lương để phục vụ cuộc kháng chiến. Địa điểm ngôi đền hiện nay là kho lương chính. Sau khi chiến thắng trở về, ngài đã cắm sinh phần, lấy đây làm dân “tạo lệ” và từ đó xuất hiện thôn Trần Thương và các thôn khác như: Đội Xuyên, Hoàng Xá, Khu Mật… những tên cổ gắn với việc đồn trú của quân đội nhà Trần. Trong số các di tích thờ Trần Hưng Đạo Đại Vương trên đất Hà Nam và cả nước, đền Trần Thương là di tích tiêu biểu, có quy mô kiến trúc lớn, Ngôi đền thâm nghiêm, cổ kính tọa lạc trên đất thiêng “Hình nhân bái tướng” “Ngũ mã thất tinh”, được xây kiểu “Tứ thủy quy đường”. Tổng thể kiến trúc cảnh quan ngôi đền gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, 5 tòa, 15 gian, chia thành 3 cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và hai giải vũ, 5 giếng…Kiến trúc độc đáo và cảnh quan tự nhiên của đền Trần Thương như nhập đời vào đạo, nhập con người với vũ trụ trong một không gian văn hóa linh thiêng. Giá trị đền Trần Thương còn được thể hiện ở phần trang trí kiến trúc với các đề tài, họa tiết được chạm khắc công phu như: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước, mây trời…Tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa sống động, vừa cổ kính trang nghiêm hàm chứa triết lý dân gian.
Đồ thờ, cổ thư của ngôi đền cũng rất phong phú, quý hiếm. Đặc biệt là pho tượng Đức Thánh Trần trong ban thờ hậu cung với vẻ mặt uy nghiêm của một vị “Thánh” nhân, nhưng vẫn nở nụ cười bao dung, đôn hậu. Tổng thể kiến trúc, cảnh quan đền Trần Thương đã gợi lên bóng dáng phủ đệ của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Với những giá trị về lịch sử, văn hóa đặc sắc, năm 1989 đền Trần Thương đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia.

Lễ hội đền Trần Thương



 

“Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ”. Từ bao đời nay, nơi đây cùng các địa phương thờ Trần Hưng Đạo, mở hội vào dịp trung tuần tháng 8 (âm lịch), đặc biệt là ngày 20 tháng 8, ngày Đại vương qua đời. Dân gian có câu: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Vào ngày lễ hội, từ Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương đến đền Trần Thương, Lý Nhân, Hà Nam về đến Bảo Lộc (Nam Định) khách hành hương theo lộ trình chiêm bái, tôn vinh người anh hùng dân tộc, đã được truy tôn là bậc “Thánh”, ban những điều tốt lành, mong làm việc thiện.
Đền Trần Thương hàng năm mở hội từ 18 đến 20 tháng 8 (âm lịch), một lễ hội vùng tiêu biểu của tỉnh Hà Nam, thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương. Trong lễ hội diễn ra nhiều hoạt động văn hóa dân gian, tục thi đặc sắc, độc đáo nhất là lễ rước nước và thi bơi chải trên sông. Các nghi thức trên vừa mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận, gió hòa, “Phong đăng, hòa cốc”, “Quốc thái dân an”, nhắc nhở đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đồng thời gợi nhớ nguồn gốc của dòng tộc nhà Trần vốn quen nghề sông nước. Bên cạnh đó còn tổ chức “Diễn sướng Thanh đồng”, một lễ nghi đặc sắc có từ lâu đời của đền Trần Thương với sự tham gia đông đảo của các “cơ cánh” đến từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đặc biệt vào giờ Tý ngày rằm tháng Giêng hàng năm còn mở Lễ phát lương ban lộc đầu năm của Đức Thánh Trần cho nhân dân và khách thập phương.

 

Để bảo tồn và phát huy các di tích đặc sắc của di tích, năm 2009, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đã phê duyệt quy hoạch tổng thể và chi tiết di tích Lịch sử - Văn hóa đền Trần Thương giai đoạn 2009-2015, với 5 khu chức năng chính gồm: Khu vực bảo tồn các di tích Lịch sử - Văn hóa: Đền Trần Thương, đình Tróc, chùa Di, đền Khu Hoàng; Khu du lịch thương mại, khu du lịch sinh thái; khu vực lễ hội và khu các trò chơi dân gian với tổng diện tích quy hoạch 100ha.
Năm 2009, đền Trần Thương đã được Nhà nước quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo lớn toàn bộ kiến trúc chính: Cung Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam, hai giải vũ, giếng, đường vào đền và nghi môn với nguồn vốn trên 16 tỷ đồng. Đồng thời đầu tư cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, làm đường giao thông mới vào di tích. Tương lai không xa, trên mảnh đất này sẽ có cây cầu lớn bắc qua sông Hồng nối liền Hà Nam với các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng…Đây sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi để khu di tích Lịch sử - Văn hóa tâm linh đền Trần Thương phát huy tốt các giá trị, trở thành điểm du lịch tâm linh, tín ngưỡng quan trọng của tỉnh Hà Nam, là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước.


 

Trên lộ trình về đền Trần Thương du khách còn được tham quan các di tích cấp Quốc gia tiêu biểu: Đình Vĩnh Trụ, đình Văn Xá, đền Bà Vũ, đình Trác Nội, thăm quê hương nhà văn-liệt sĩ Nam Cao. Đền Trần Thương, điểm quy tụ để nhân dân, khách thập phương xa gần, hành hương tưởng nhớ về nguồn cội, chiêm ngưỡng di tích lịch sử văn hóa và cầu nguyện may mắn trong cuộc sống./.

ĐỘNG PHÚC LONG


Từ thành phố Phủ Lý theo quốc lộ 1A đi về phía Ninh Bình 2km, rẽ phải theo đường qua cầu Đọ về Châu Sơn 4km sẽ đến động.
Động Phúc Long nằm trong khu vực núi Chùa thôn Châu, thuộc núi Kiện Khê (còn gọi là núi Thiên Kiện). Núi Chùa là một trong số những ngọn núi nối đuôi nhau ở địa phận thôn Châu Sơn và thôn La Mát thuộc Kiện Khê. Núi Chùa là ngọn trung tâm, trên đó có chùa Hang, có khu miếu ở phía bắc chùa. Vua Trần Duệ Tông (1373-1377) đã cho lập đền thờ trên núi, đền thờ này bị nhà Nguyễn phá vào năm Tân Dậu (1801) và cho xây lại ở thôn Châu như vị trí hiện nay. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, tục truyền trên núi Thiên Kiện có cây tùng cổ có rồng quần ở trên, vua Trần Thái Tông đã lập hành cung và Trần Đế Nghiễn cho quân vận chuyển tiền đồng về cất giấu năm 1379 ở nơi đây. Thời Pháp thuộc, Viễn Đông bác cổ đã liệt hạng núi Chùa là cổ tích danh thắng (ngày 01 tháng 6 năm 1925).
Núi Chùa do các khối đá vỉa xếp chồng chất, lởm chởm như đầu con rồng. Có mỏm đứng chơ vơ trên đỉnh như sừng rồng, nhiều mỏm đá dựng ngược như tóc rồng, phía nam núi có một mái đá nhô ra, dưới mái đá có những vỉa bò lan, nổi cộm lại thành miệng con rồng mà ngôi chùa như hạt ngọc nằm gọn trong miệng con rồng, nhiều vỉa đá xếp thành các bậc thang rất thuận tiện cho việc lên núi ngắm cảnh. Trên đỉnh núi có nhiều cây cổ thụ kiểu dáng khác nhau, từ đây có thể bao quát cảnh sơn thủy hữu tình của sông Đáy, núi Bút Sơn, thành nhà Hồ, núi rừng Thanh Thủy và dòng sông Đáy.
Từ đất bằng leo lên chừng 2m tới cửa động, từ cửa động đi vào chừng 5m tới một ngã ba, rẽ bên phải đi xuống dần hàng chục mét là động có nhiều thạch nhũ đẹp, rẽ bên trái là đường lởm chởm nhũ đá nhô lên, rủ xuống tạo thành nhiều hình thù kỳ lạ. Động Phúc Long có dáng một con rồng thắt túi, có nhiều dơi bám trên vách nên nhân dân địa phương còn gọi đây là hang dơi. Động Phúc Long có sức chứa vài trăm người. Động hài hòa với cảnh quan núi Chùa, ngay bên cạnh là đình và chùa thôn Châu, tạo thành một di tích thắng cảnh hấp dẫn đối với du khách gần xa.

BÁT CẢNH SƠN

Quần thể di tích thắng cảnh Bát cảnh sơn nằm ở xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, Hà Nam
Từ thành phố Phủ Lý, theo quốc lộ 22 đi 13km là đến quần thể danh thắng Bát cảnh sơn (hoặc có thể đi từ Đồng Văn theo quốc lộ 60).
Vùng núi Bát Cảnh Sơn
Xã Tượng Lĩnh được thiên nhiên ưu đãi với địa hình hiên có nhiều tiềm năng phong phú. Dãy Bát cảnh sơn đứng bên tả ngạn sông Đáy, dựa lưng vào vòng cung Nam Công (Kim Bảng – Hà Nam và Tuyết Sơn, Hương Tích – Hà Nội), tạo thành thế núi hình sông kỳ thú. Xét theo tổng thể ở phạm vi rộng thì Bát cảnh sơn là một cụm du lịch của quần thể Hương Sơn bởi hai thắng cảnh này rất gần gũi, tiếp giáp với nhau liền mạch trong dãy núi đá vôi Hà Nam – Hà Tây. Theo vị trí địa lý hành chính. Bát cảnh sơn là "tiểu thắng cảnh", là cửa ngõ Hương Sơn, nằm trong xã Tượng Linh, nơi ngã ba của 3 huyện Kim Bảng (Hà Nam), Mỹ Đức, Ứng Hoà (Hà Nội).
Từ lâu, dãy Bát cảnh sơn (dãy núi có 8 cánh) được coi là một thắng cảnh của trấn Sơn Nam. Theo Lịch triều hiến chương loại chí (phần Dư địa chí) của Phan Huy Chú thì vào thế kỷ thứ XVI, Nghị tổ Trịnh Doanh qua đây chiêm ngưỡng đã ví Bát cảnh sơn với Tiêu Tương bên Trung Quốc và cho lập hành cung để đi về thưởng ngoạn. Xưa kia, ở Bát cảnh sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ thổ đại thần linh được bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành. Có thể do tám ngôi chùa mà vùng núi này được đặt tên là Bát cảnh sơn? Ngày nay, mặc dù một vài cảnh quan đã bị hủy hoại vì chiến tranh nhưng hàng năm khách vãn cảnh chùa Hương và khách du lịch thập phương vẫn về thăm với một số lượng khá đông.
Bát ảnh sơn bao gồm:

1. Đền Tiên Ông (đền Ông).

Được xây dựng vào đời vua Trần Nhân Tông trên lưng chừng núi Tượng Lĩnh, cao khoảng 200m giống hình con vui phủ phục (nhân dân thường gọi là voi quỳ). Núi Tượng Lĩnh là điểm đầu tiên trong hệ thống Bát cảnh sơn.

Đền Tiên Ông
Từ km 13 quốc lộ 22, theo đường đá thoai thoải tới phía bắc chân núi Tượng Lĩnh, qua 5 gian nhà khách, 3 gian nhà tổ, du khách đi 108 bậc đá lên đền. Đền hình chữ tam: tiền đường 5 gian, trung đường 3 gian, và hậu cung 1 gian. Đền trước vốn nhỏ, sau nhiều lần trùng tu mới có được quy mô đồ sộ như ngày nay. Tiền đường được kiến trúc kiểu chồng diêm tám mái cong, 4 góc đầu dao hình rồng mềm mại, mái lợp ngói nam đều đặn. Tòa trung đường xây kiểu hồi văn cánh bảng tam đấu, hậu cung cuốn vòm. Ở đây còn lưu giữ được nhiều thần phả, sắc phong và nhiều đồ thờ tự quý hiếm như hoành phi, đại tự, câu đối, bát hương bằng đá, bằng đồng. Đặc biệt ở đây còn có 2 pho tượng, 1 bằng gỗ, 1 bằng đồng được thờ trong hậu cung.
Đền Tiên Ông thờ Nam thiên đại thành hoàng Thánh tổ Thiên vương Bồ Tát. Sự tích Tiên Ông được truyền thuyết kể rằng cha của Tiên Ông quê ở Từ Sơn (Bắc Ninh), là quan to trong triều nhà Trần, có tới 23 thê thiếp mà vẫn chưa có con trai. Đến khi đi kinh lý ở trấn Sơn Nam, tại xã Thịnh Đại (nay là xã Đại Cương) huyện Kim Bảng, thân phụ ngài lấy tới thê thiếp thứ 24 mới sinh được ngài. Ngài sinh ra đã có tướng mạo khác thường, lớn lên chỉ một lòng đèn hương thờ Phật. Ngài chu du khắp nơi tìm thầy học đạo. Vào một ngày, ngài đến khu Quang Thừa (nay là xã Tượng Lĩnh) thấy dãy Bát cảnh sơn hùng vĩ bèn lập một ngôi chùa dưới chân núi động Tam Giáo để thờ Phật và thờ tổ tiên cha mẹ, gọi là chùa Tam Giáo. Sinh thời ngài có rất nhiều công lao đối với nhân dân địa phương như cứu giúp kẻ nghèo khó, chữa bệnh cứu người. Khi đắc đạo, ngài hóa thân vào cây "Đại nại" và dặn rằng hãy lấy cây gỗ đó để tạc tượng thờ, còn lấy đồng tạc tượng thờ thần. Dân nhớ ơn lập đền thờ tạc tượng gỗ và tượng đồng theo lời dặn của ngài.
Các pho tượng rất linh thiêng, trải bao lần đền bị chiến tranh giặc giã phá hủy, pho tượng đã nhiều phen bị mang đi nhưng không ai đụng tới được. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đã mang tượng đồng ở đền thờ ngài đi đúc tiền đồng nhưng búa rìu không chạm được vào tượng, tượng chỉ đổ mồ hôi, còn quân lĩnh chạm vào tượng thì bị rìu chặt vào chính chân mình. Nguyễn Hữu Chỉnh sợ hãi khấn rằng, nếu Ngài linh thiêng thì hãy cho sông Châu bên mưa, bên tạnh. Quả nhiên là ứng nghiệm. Cuối cùng, Nguyễn Hữu Chỉnh phải sai quân lính mang tượng trả lại về đền. Nhiều vị vua, chúa như Lê Thái Tổ, Lê Dụ Tông, Trịnh Doanh, Trịnh Tùng, Trịnh Sâm, Mạc Phúc Hải đã tới thăm đền. Tương truyền, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huy Oánh là con cầu tự của ngài.
Nhớ ơn ngài, cứ đến ngày rằm tháng 6 hàng năm, hai làng Thịnh Đại, Quang Thừa tổ chức lễ hội rất long trọng, khách thập phương ở nhiều nơi cùng về tham dự.

2. Chùa Ông.

Phía trước đền Tiền Ông là một hồ nước lớn hình bán nguyệt bao quanh phía bắc núi Tượng Lĩnh. Hồ có diện tích 320 mẫu, có nước quanh năm, độ sâu trung bình là 4 đến 5m. Truyền thuyết kể lại trước đây ở giữa hồ có một ngôi chùa, gọi là Chùa Ông. Năm 1901, do ảnh hưởng của lũ lụt, chùa bị cuốn trôi. Hiện nay, hồ có nhiều loại cá to, diện tích mặt nước có thể khai thác du thuyền và câu cá.

3. Chùa Tam Giáo.


Chùa Tam Giáo
Từ đền Tiên Ông, men theo sườn núi khoảng 1km là đền chùa Tam Giáo, Chùa Tam Giáo xưa kia có hàng trăm gian với hàng trăm pho tượng Phật uy nghi tráng lệ. Truyền thuyết kể rằng, khi xây dựng chùa, có rất đông thợ làm. Tiên Ông có nồi cơm và lọ muối vừng ăn hết lại đầy.
Chùa được xây dựng dưới chân núi, ở đây có một suối nước chảy từ lòng núi ra, tương truyền, dòng suối này mỗi ngày chảy ra hai bát gạo và hai đồng tiền đủ cho nhà sư sinh sống. Sau có kẻ tham biết chuyện đã đục cho miệng suối rộng ra, từ đấy gạo tiền không chảy ra nữa.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa là căn cứ hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Trung ương và tỉnh, chùa từng là kho tiếp liệu của công binh xưởng Liên khu III, lại vừa là Văn phòng thường trực Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến Liên khu III những năm 1947– 1950. Trên đường từ đền Tiên Ông đến chùa Tam Giáo trước đây có rất nhiều hang động đẹp, đến nay do biến động của thiên nhiên, do sự khai thác của con người, nhiều hang đã bị phá hủy.
Chùa Tam Giáo mới được khôi phục lại những năm gần đây. Chùa hình chữ đinh, có 5 gian đại tế và một hậu cung, đại tế tạo 8 mái chồng diêm, lợp ngói nam.

4. Chùa Kiêu, chùa Bà, chùa Dâu, chùa Cả, chùa Bông, chùa Vân Mộng.

Tất cả những ngôi chùa trên từng tạo thành một quần thể vừa linh thiêng, vừa là danh thắng đẹp mắt. Tiếc rằng, cho đến nay, 6 ngôi chùa kể trên đều không còn, có chùa đã bị san bằng, có chùa chỉ còn lại nền móng.
Cách chùa Tam Giáo 150m đi ngược lên đỉnh núi là chùa Kiêu. Chùa Kiêu nằm trên đỉnh núi cao, từ đây có thể bao quát một vùng rộng lớn phía đông nam xã Tượng Lĩnh. Hiện nay chùa chỉ còn nền móng và một động nhỏ rộng 10m2. Dọc đường có 3 tấm bia khắc vào vách núi. Bên cạnh động có khối đá vuông mặt nhẵn nhụi trên có ghi chữ Hán: "Nhật nguyệt trường quang". Tục truyền ngày xưa cứ đêm trăng sáng, Tiên Ông cùng ngồi đánh cờ với các quan nhà trời.
Từ chùa Kiêu, vượt qua đường đèo và 3 thung lũng, qua 5 ngọn núi là đến chùa Vân Mộng. Tương truyền chùa Vân Mộng là nơi mà Thiền sư Nguyễn Minh Không đã từng tu hành và trụ trì. Ngôi chùa cũng đã đi vào sách vở với ghi chép của Lê Quý Đôn trongVân đài loại ngữ. Tục truyền, vua nhà Lý bị đau mắt không thuốc nào chữa khỏi. Nghe tin ở chùa Vân Mộng có Quỷ Cốc tiên sinh thông tuệ thiên địa bèn đến cầu thì được biết nhà vua đau mắt là do động huyệt xoáy rồng ở khúc sông Hồng, cần có người hiến tế thì nhà vua mới khỏi bệnh. Sau có ông bà bán dầu Vũ Phục nhảy xuống sông, quả nhiên nhà vua lành mắt.
Chùa Vân Mộng nằm trên sườn núi chênh vênh quyện cùng khói mây huyền ảo, xung quanh có rất nhiều hang động lớn nhỏ kỳ thù bí ẩn, có những hang sâu 30m, rộng khoảng 300m2 như hang Dơi, hang Bạc, hang Vàng… Từ đây có thế đến thung Bế, thung Vạc của xã Tân Sơn. Hiện nay chùa chỉ còn nền móng cũ và một vài hiện vật như bia khắc vào vách núi, bát hương đá, đá tảng kê chân cột. Phía tây chùa có núi Hai Quả cao chót vót, lưng chừng núi có hang Dơi, vì ở đây có rất nhiều dơi đến trú ngụ, có những con to như cái quạt giấy. Cửa hang hình miệng rồng, hang sâu 50m. Đặc biệt trong hang có một hồ nước nhỏ, vòm hang có nhiều nhũ đá tự nhiên với nhiều hình thù kỳ lạ, đẹp mắt.
Ngoài ra, ở vùng Bát cảnh sơn xưa kia còn các ngôi chùa Bà, chùa Dâu, chùa Bông, chùa Cả hiện nay không còn dấu tích để lại.
Địa linh nhân kiệt, Bát cảnh sơn không chỉ nổi tiếng là danh thắng mà còn nổi tiếng về người hiền tài. Huyện Kim Bảng có 5 nhà khoa bảng thì Tượng Lĩnh có tới 3 người. Tượng Lĩnh còn được coi là nơi phát tích truyện trầu cau vì ở đây còn có suối Cau trong dãy núi đá vôi (nay gọi là suốt Tân Lang), có chợ trầu (này là chợ Dầu).
Với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, với những dấu tích xưa còn lại, quần thể Bát cảnh sơn nếu được khai thác đúng hướng chắc chắn sẽ trở thành một điểm du lịch sinh thái – văn hoá hấp dẫn trên đất Kim Bảng, Hà Nam.

TÌM HIỂU VỀ NÚI NGỌC


Núi Ngọc nằm ở thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam.
Núi Ngọc cách chùa Bà Đanh 100m về phía bắc. Từ thành phố Phủ Lý, ngược sông Đáy 7km, tới bến Đanh, đi tiếp 100m là đến núi Ngọc.
Quả núi nằm sát mặt nước sông Đáy. Núi Ngọc là một ngọn núi đá vôi trong hệ thống núi đá kéo dài từ Hòa Bình xuống hướng tây bắc đông nam qua xã Tượng Lĩnh – Khả Phong – Liên Sơn của huyện Kim Bảng. Tuy nhiên núi Ngọc nằm tách riêng, ngăn cách vệt dãy núi kia bằng con sông Đáy.
Núi Ngọc không cao lắm. Ở đây cây cối mọc nhiều, cây to cây nhỏ mọc chen nhau cành lá xum xuê do dân địa phương có ý thức giữ gìn. Trên núi có một cây si cổ thụ, tương truyền có tới hàng trăm tuổi. Đứng trên ngọn núi, du khách có cảm tưởng như được tách riêng biệt khỏi sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống hiện đại để hòa mình vào sự yên tĩnh thuần khiết của thiên nhiên với núi, sông, cây cỏ. Ngay dưới chân núi có một ngôi đền cổ thờ một ông nghè có công với dân làng.
Nối giữa chùa Bà Đanh và núi Ngọc là một bãi rộng trồng cây lưu niên, chủ yếu là vải thiều, nhãn, tùy thời vụ có xen cả ngô lúa. Nằm hoàn toàn biệt lập với khu dân cư, trên núi, dưới sông, gần đền, gần chùa, núi Ngọc quả là một thắng cảnh của đất Kim Bảng, một địa điểm du lịch đầy hấp dẫn.

DU LỊCH HANG LUỒN - AO DONG

Quả núi có cửa hang

Từ thành phố Phủ Lý qua cầu Hồng Phú, theo quốc lộ 21, đến cây số 11, rẽ trái 500m là tới hang.Trước cửa hang, có hai quả núi thấp đứng đối nhau tạo nên một cửa đá đồ sộ chắn ngang trước cửa hang. Mặt bằng trước hai quả núi này rất rộng, đây là một điểm dừng chân lý tưởng để ngắm toàn cảnh khu vực núi non và hang Luồn.
Đi thuyền trên ao Dong
Đây là khu vực được bao bọc xung quanh bởi các dãy núi cao, ở giữa thung lũng này nổi lên một dãy núi thấp, dãy núi này có hang Luồn. Miệng hang Luồn chính là mặt trước của dãy núi nhìn ra cửa đá. Trước mặt hang là một bãi đất rộng có một con kênh lớn chứa nhiều nước. Về mùa mưa, đây là một bến thuyền. Mùa cạn có thể vừa đi thuyền, vừa đi bộ xuống cửa hang. Nguồn nước ở đây từ các khe núi cao đổ xuống, tỏa vào các kênh, các mạch ngầm rồi dẫn ra sông Đáy. Chính vì vậy, nước rất trong và sạch, có thể nhìn thấu đáy. Về mùa mưa, nước dâng lên sát trần hang nhưng cũng chỉ chốc lát là rút hết, chỉ giữ lại một lượng nước vừa đủ để vào hang.


Cửa hang Luồn

Miệng hang Luồn có hình vòm vách núi, chỗ nhô ra, chỗ lõm vào, chỗ thì chạy thẳng xuống lòng hang, vách thì uốn cong. Đặc biệt có vô số các nhũ đá hình thù muôn vẻ, cái từ trần hang rủ xuống, cái từ vách đá chồi ra kéo dài suốt chiều dài cửa hang. Chiều dài hang Luồn khoảng 400m, chiều rộng của hang vừa đủ cho một đoàn khách đi thuyền ngắm các vách núi với các nhũ đá kỳ lạ và nghe tiếng nước rỏ tí tách. Trong ánh sáng mờ ảo du khách sẽ cảm thấy bập bềnh, rồi du thuyền sẽ đưa du khách tới một không gian mở ra choáng ngợp khi gặp ao Dong.


Nhũ đá kỳ thú trong hang
Ao Dong rộng khoảng 300 mẫu, nước trong vắt có thể nhìn thấy từng con cá bơi, thấy cả thảm thực vật, đặc biệt là các loài rong núi, ngay cả ở mực nước sâu tới 3m. Ao Dong được tạo nên bởi các dãy núi cao, với rừng cây bên sườn núi. Động vật ở đây khá đa dạng, cỏ trắng, sơn dương rất nhiều tạo thêm sự sinh động hấp dẫn cho cảnh quan. Các ngọn núi in bóng xuống làn nước trong vắt của ao Dong tạo nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.
Hang Luồn, ao Dong với sự kết hợp hài hòa của núi non cây cỏ, trời xanh, nước biếc, quần thể động thực vật hoang dã phong phú là điểm du lịch sinh thái có giá trị của tỉnh Hà Nam.

LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN (VUA ĐI CÀY)


Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, Hà Nam là một lễ hội mang ý nghĩa khuyến nông và là nét đẹp văn hóa trở về nguồn cội. Lần đầu tiên nghi thức lễ tịch điền này được diễn ra vào thế kỷ X ở Hà Nam, trên quê hương vua Lê Đại Hành và sau nhiều năm thất truyền, được khôi phục từ năm 2009 vào mùng 7 tháng Giêng.
Lịch sử ghi lại: mùa xuân năm 987, lần đầu tiên vua Lê Đại Hành cùng văn võ bá quan cày ruộng ở Đọi Sơn và bắt được chum vàng, năm 988 cày ở Bàn Hải bắt được chum bạc, vì thế những thửa ruộng này còn được gọi là Kim Ngân Điền. Từ đó, hàng năm vào đầu xuân, nhà vua ra đồng cày ruộng, làm Lễ tịch điền (đích thân vua xuống đi cày ruộng), cầu được mùa và các triều đại sau đó đều duy trì nghi lễ cày tịch điền với các hình thức khác nhau. Đến triều Nguyễn, lễ tịch điền có nhiều "niêm luật" cụ thể, được tổ chức quy mô, do bộ lễ chủ trì nhưng lễ này cũng chấm dứt dưới thời vua Khải Định.
Lễ tịch điền không chỉ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm của các vị vua đối với người nông dân mà còn tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, lòng biết ơn tiền nhân, tích cực phát triển sản xuất nông nghiệp. Bởi thế, mỗi người dân Hà Nam nói riêng, Việt Nam nói chung cần phát huy truyền thống thi đua lao động, sản xuất, phát triển kinh tế trên chính mảnh đất quê hương mình.
Lễ hội liên hoàn các nghi lễ và diễn xướng, kết hợp với văn hóa, nghệ thuật, thể thao, diễn ra trong không gian rộng từ mồng 5-7 tết âm lịch với nhiều hoạt động như: rước chân nhang vua Lê Đại Hành từ đền Lăng, xã Liêm Cần, Thanh Liêm về xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, lễ rước nước, lễ sái tịnh…
Nghi lễ chính trong toàn bộ lễ hội là lễ tịch điền Đọi Sơn, tái hiện huyền tích từ thời Thập đạo tướng quân Lê Hoàn khi ông nhận thấy núi Đọi có vị trí chiến lược quan trọng đối với kinh đô Hoa Lư đến khi lên ngôi vua, Lê Đại Hành về chân núi Đọi cày ruộng để khuyến khích mở mang nông trang. Lễ tịch điền được tiến hành theo thứ tự: vua Lê Đại Hành cày 3 sá, lãnh đạo tỉnh Hà Nam cày 5 sá, lãnh đạo huyện Duy Tiên cày 7 sá, lãnh đạo xã Đọi Sơn và các bô lão cày 9 sá.
Sau một thời gian dài gián đoạn, từ năm 2009, phong tục tốt đẹp này được phục hồi lại. Vào năm 2010, lần đầu tiên chủ tịch nước Việt Nam (ông Nguyễn Minh Triết) cũng đã đến mặc áo nông dân cầm cày thực hiện nghi lễ tịch điền Đọi Sơn.
Hội thi trang trí trâu cũng là một hoạt động khá sôi nổi trong lễ hội này. Thay vì trang trí bằng vải đỏ thời xưa, nay những chú trâu tham gia lễ tịch điền được trang trí bằng những nét vẽ tứ linh, tứ quý….

Năm 2009 cũng là năm đầu tiên mà tỉnh Hà Nam tổ chức giải đấu vật tại Đọi Sơn.
Lễ hội góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời quảng bá tiềm năng du lịch của huyện Duy Tiên, nơi có nhiều danh thắng đẹp, có chùa Long Đọi Sơn.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tham gia cày ruộng tại Lễ Hội tịch Điền
Dưới cánh đồng ở chân núi Đọi Sơn (Hà Nam), sau khi làm lễ dâng hương, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dắt trâu đi cày. Đây là một trong những nghi thức tại lễ hội Tịch điền (hay còn gọi là lễ hội xuống đồng) diễn ra tại cánh đồng Đọi Sơn.
Đây là một trong những lễ hội lớn diễn ra đầu xuân được duy trì trong 6 năm gần đây, mang ý nghĩa khuyến nông và là nét đẹp văn hóa cội nguồn.
Sau đây là những hình ảnh ghi lại cảnh tái hiện vua đi cày trong lễ hội Tịch điền Đọi Sơn:


Các chú trâu trước khi cày được kiểm tra kỹ lưỡng


Các vị bô lão già nhất trong xã sẽ đại điện người dân đi từ cuối thửa ruộng lên sân khấu để làm lễ tế trời đất
  
Nghi thức tế lễ bắt đầu
  
Trong khi nghi thức lễ tế đang diễn ra, trâu để cày những sá đầu tiên trong tư thế sẵn sàng
  
Những chú trâu chiến thắng trong lễ vật Đọi Sơn sẽ được sơn vẽ và cày những sá tiếp theo  

Những sá cày mong ước một mùa màng bội thu, no ấm
  
Hàng ngàn người dân nô nức đến xem

   
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trực tiếp dắt trâu đi cày và rắc hạt xuống những luống cày   
  

Những cô gái sẽ theo đường cày sau rắc hạt lúa, hạt ngô
Ở thửa ruộng bên, những chiếc mày cày cũng đi những luống cày cho đất tơi xốp
   
Một số trò chơi dân gian khác trong lễ hội

Những chú trâu sau lễ hội trở về với đồng ruộng
Các liền anh, liền chị cũng có mặt trong lễ hội Tịch điền

 

LY KỲ CHÙA TRINH TIẾT VỚI TẢNG ĐÁ "BỤT" BIẾT LỚN LÊN NHƯ NGƯỜI


“Tảng đá tự lớn” trên đỉnh Bồ Đà

Tảng đá có hình ông Bụt này nằm trong khuôn viên của chùa Trinh Tiết thôn Động Xuyên, xã Thanh Hải (Thanh Liêm, Hà Nam).
Ly kỳ “tảng đá biết lớn lên như người"
Đó là lời đồn về một tảng đá có hình ông Bụt trong khuôn viên của chùa theo năm tháng cũng tự mình lớn lên chẳng khác gì một con người. Chính vì câu chuyện kỳ lạ chưa rõ thực hư này mà bao nhiêu người đã không quản ngại đường sá xa xôi cất công về tận nơi để được chiêm ngưỡng một sự lạ mà họ chưa từng được thấy trong đời.
Trụ trì chùa Trinh Tiết là Đại đức Thích Thanh Hưng đưa chúng tôi đến chỗ tảng đá có tên là tượng Bụt Mọc được cho là tảng đá "thần" có khả năng tự lớn. Đó là một tảng đá lớn nhô cao giữa vô số các nhũ đá tai mèo nhỏ hơn kết thành những vòng tròn quây quần xung quanh. Tảng đá "thần" có đỉnh nhọn hoắt như một mũi tên đâm thẳng lên trời nhưng nhìn kỹ lại thấy có nhiều nét giống hình dáng của một ông Bụt đang ngồi trên một đài sen mà những nhũ đá tai mèo chính là những cánh sen gối lên nhau từng lớp đều đặn.
Đại đức Thích Thanh Hưng cho biết, nhiều người dân đã gắn bó cả cuộc đời ở nơi này, mỗi lần lên chùa thắp hương, vãn cảnh đều quả quyết tượng Bụt Mọc đã lớn hơn rất nhiều so với những năm trước, khi họ còn là những đứa trẻ. Cụ Trần Ngọc Kim năm nay đã hơn 70 tuổi, người đã có hơn 20 năm trông giữ chùa cũng khẳng định chuyện tảng đá tự lớn là có thật.
Cụ cho biết, khi mình còn nhỏ, thỉnh thoảng vẫn cùng lũ trẻ chăn trâu leo lên núi Bồ Đà chơi. Lúc đó, chùa Trinh Tiết chỉ là một ngôi chùa bị bỏ hoang, quanh năm không người nhang khói và tượng Bụt Mọc cũng chỉ cao bằng đứa trẻ lên 7. Bẵng đi nhiều năm, khi tóc đã hoa râm, trong một lần trở lại núi Bồ Đà, cụ Kim ngỡ ngàng nhận ra khối đá vô tri vô giác ngày nào chẳng hiểu vì lẽ gì cũng đã cao bằng mình. Ban đầu, cụ còn tưởng mình bị hoa mắt chóng mặt vì leo núi hoặc mắc phải chứng bệnh hoang tưởng. Nhưng sau đó, thấy nhiều người cùng có kết luận giống mình, cụ mới tin đó là sự thật.


Cảnh chùa Trinh Tiết
Tiếng lành đồn xa, càng ngày càng có nhiều người dân lui tới chốn này để cầu mong những điều tốt lành trong cuộc sống. Ngôi chùa một thời chìm trong quên lãng bắt đầu được tu sửa lại nhờ tiền công đức của khách thập phương cùng công sức đóng góp của những người dân tình nguyện trong vùng. Những giai thoại kỳ lạ về ngôi chùa trên đỉnh Bồ Đà cũng được khơi lại một cách tự nhiên trong những câu chuyện "trà dư tửu hậu" thường ngày.
Những giai thoại nhắc chuyện người xưa.
Giải thích về những câu chuyện kỳ lạ xung quanh chùa Trinh Tiết, cụ Trần Ngọc Kim cho biết, hầu hết trong số đó là những giai thoại được nhân dân thêu dệt lên rồi truyền từ đời này sang đời khác. Nhưng theo sử sách ghi chép lại thì ngôi chùa linh thiêng này xưa kia có tên là Phật Tích Tự chứ không phải chùa Trinh Tiết như bây giờ. Cái tên Trinh Tiết bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XIV và gắn liền với tên tuổi của một cô công chúa nhà Trần.
Chuyện kể rằng, vào giai đoạn hậu kỳ nhà Trần, triều đình thối nát, xã hội rối ren, trăm họ rơi vào cảnh lầm than đói khổ. Sẵn quyền hành trong tay, lại có âm mưu tạo phản từ lâu, Hồ Quý Ly đã ép vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Án lúc đó mới được 3 tuổi. Để đề phòng Hồ Quý Ly hãm hại, võ tướng Nguyễn Bằng được lệnh đưa công chúa Trần Thị Bạch Hoa khi ấy vừa tròn 17 tuổi, xinh đẹp như trăng rằm, tâm sáng tựa sao khuê, chạy trốn.
Trên đường chạy trốn, đến bãi Kẽm Trống bên bờ sông Đáy, họ dừng chân dưới chân núi Bồ Đà thuộc dãy Cầm Long. Thấy phong cảnh sơn thủy hữu tình đẹp như tranh vẽ, công chúa Bạch Hoa lưu luyến không muốn rời đi. Trong lúc lên núi vãn cảnh, bắt gặp ngôi chùa bị bỏ hoang, nàng đã quyết định lưu lại chốn này, hàng ngày lấy việc giúp người, giúp đời làm vui.
Công chúa Bạch Hoa đã gắn bó với ngôi chùa bị bỏ hoang ấy đến cuối đời, làm rất nhiều việc tốt cho dân chúng trong vùng nên được người dân hết lòng tin yêu, kính trọng. Cũng tại nơi này, bà đã "thác tích" về cõi Phật khi vẫn còn là một "trinh nữ" không vướng chút bụi trần. Để tỏ lòng tiếc thương công chúa Bạch Hoa vì đã có nhiều công lao với dân chúng trong vùng, người dân ở đây đã đổi tên chùa thành "Trinh Sơn Tự" với mong muốn tôn vinh đức hạnh và trinh tiết của người phụ nữ. Nhưng người dân chỉ quen gọi một cách dân dã là chùa Trinh Tiết, lâu dần thành tên gọi phổ biến được hầu hết mọi người biết đến.
Đại đức Thích Thanh Hưng cho biết thêm, trên đỉnh Bồ Đà còn có Lăng Quy Tượng là một lăng mộ chôn rất nhiều tượng cổ. Đó là những pho tượng lâu đời có chiều cao trên dưới 1m, được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau. Nhưng vì tượng đã bị hư hỏng nên được nhà chùa cùng chính quyền địa phương quy tụ lại đem chôn trên đỉnh núi. Cũng vì lẽ đó mà mộ được đặt tên là tên Lăng Quy Tượng với ý nghĩa chỉ lăng mộ quy tụ các pho tượng.
Hiện nay, trên chùa Trinh Tiết vẫn còn những văn bản chữ Nôm được ghi khắc trên bia đá. Tuy đã bị thời gian bào mòn theo năm tháng, nhưng những vết tích cổ xưa ấy vẫn là một minh chứng sinh động cho lịch sử vàng son của một ngôi chùa được xếp vào loại độc đáo nhất vùng. Nằm trong quần thể di tích Kẽm Trống, trải bao tháng năm lịch sử, chùa Trinh Tiết vẫn còn đó như một biểu tượng bất tử về đức hạnh của người phụ nữ, nhắc người đời sau sống trọn với bốn chữ vàng "Tiết hạnh khả phong".