Social Icons

Pages

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

LY KỲ CHÙA TRINH TIẾT VỚI TẢNG ĐÁ "BỤT" BIẾT LỚN LÊN NHƯ NGƯỜI


“Tảng đá tự lớn” trên đỉnh Bồ Đà

Tảng đá có hình ông Bụt này nằm trong khuôn viên của chùa Trinh Tiết thôn Động Xuyên, xã Thanh Hải (Thanh Liêm, Hà Nam).
Ly kỳ “tảng đá biết lớn lên như người"
Đó là lời đồn về một tảng đá có hình ông Bụt trong khuôn viên của chùa theo năm tháng cũng tự mình lớn lên chẳng khác gì một con người. Chính vì câu chuyện kỳ lạ chưa rõ thực hư này mà bao nhiêu người đã không quản ngại đường sá xa xôi cất công về tận nơi để được chiêm ngưỡng một sự lạ mà họ chưa từng được thấy trong đời.
Trụ trì chùa Trinh Tiết là Đại đức Thích Thanh Hưng đưa chúng tôi đến chỗ tảng đá có tên là tượng Bụt Mọc được cho là tảng đá "thần" có khả năng tự lớn. Đó là một tảng đá lớn nhô cao giữa vô số các nhũ đá tai mèo nhỏ hơn kết thành những vòng tròn quây quần xung quanh. Tảng đá "thần" có đỉnh nhọn hoắt như một mũi tên đâm thẳng lên trời nhưng nhìn kỹ lại thấy có nhiều nét giống hình dáng của một ông Bụt đang ngồi trên một đài sen mà những nhũ đá tai mèo chính là những cánh sen gối lên nhau từng lớp đều đặn.
Đại đức Thích Thanh Hưng cho biết, nhiều người dân đã gắn bó cả cuộc đời ở nơi này, mỗi lần lên chùa thắp hương, vãn cảnh đều quả quyết tượng Bụt Mọc đã lớn hơn rất nhiều so với những năm trước, khi họ còn là những đứa trẻ. Cụ Trần Ngọc Kim năm nay đã hơn 70 tuổi, người đã có hơn 20 năm trông giữ chùa cũng khẳng định chuyện tảng đá tự lớn là có thật.
Cụ cho biết, khi mình còn nhỏ, thỉnh thoảng vẫn cùng lũ trẻ chăn trâu leo lên núi Bồ Đà chơi. Lúc đó, chùa Trinh Tiết chỉ là một ngôi chùa bị bỏ hoang, quanh năm không người nhang khói và tượng Bụt Mọc cũng chỉ cao bằng đứa trẻ lên 7. Bẵng đi nhiều năm, khi tóc đã hoa râm, trong một lần trở lại núi Bồ Đà, cụ Kim ngỡ ngàng nhận ra khối đá vô tri vô giác ngày nào chẳng hiểu vì lẽ gì cũng đã cao bằng mình. Ban đầu, cụ còn tưởng mình bị hoa mắt chóng mặt vì leo núi hoặc mắc phải chứng bệnh hoang tưởng. Nhưng sau đó, thấy nhiều người cùng có kết luận giống mình, cụ mới tin đó là sự thật.


Cảnh chùa Trinh Tiết
Tiếng lành đồn xa, càng ngày càng có nhiều người dân lui tới chốn này để cầu mong những điều tốt lành trong cuộc sống. Ngôi chùa một thời chìm trong quên lãng bắt đầu được tu sửa lại nhờ tiền công đức của khách thập phương cùng công sức đóng góp của những người dân tình nguyện trong vùng. Những giai thoại kỳ lạ về ngôi chùa trên đỉnh Bồ Đà cũng được khơi lại một cách tự nhiên trong những câu chuyện "trà dư tửu hậu" thường ngày.
Những giai thoại nhắc chuyện người xưa.
Giải thích về những câu chuyện kỳ lạ xung quanh chùa Trinh Tiết, cụ Trần Ngọc Kim cho biết, hầu hết trong số đó là những giai thoại được nhân dân thêu dệt lên rồi truyền từ đời này sang đời khác. Nhưng theo sử sách ghi chép lại thì ngôi chùa linh thiêng này xưa kia có tên là Phật Tích Tự chứ không phải chùa Trinh Tiết như bây giờ. Cái tên Trinh Tiết bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XIV và gắn liền với tên tuổi của một cô công chúa nhà Trần.
Chuyện kể rằng, vào giai đoạn hậu kỳ nhà Trần, triều đình thối nát, xã hội rối ren, trăm họ rơi vào cảnh lầm than đói khổ. Sẵn quyền hành trong tay, lại có âm mưu tạo phản từ lâu, Hồ Quý Ly đã ép vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Án lúc đó mới được 3 tuổi. Để đề phòng Hồ Quý Ly hãm hại, võ tướng Nguyễn Bằng được lệnh đưa công chúa Trần Thị Bạch Hoa khi ấy vừa tròn 17 tuổi, xinh đẹp như trăng rằm, tâm sáng tựa sao khuê, chạy trốn.
Trên đường chạy trốn, đến bãi Kẽm Trống bên bờ sông Đáy, họ dừng chân dưới chân núi Bồ Đà thuộc dãy Cầm Long. Thấy phong cảnh sơn thủy hữu tình đẹp như tranh vẽ, công chúa Bạch Hoa lưu luyến không muốn rời đi. Trong lúc lên núi vãn cảnh, bắt gặp ngôi chùa bị bỏ hoang, nàng đã quyết định lưu lại chốn này, hàng ngày lấy việc giúp người, giúp đời làm vui.
Công chúa Bạch Hoa đã gắn bó với ngôi chùa bị bỏ hoang ấy đến cuối đời, làm rất nhiều việc tốt cho dân chúng trong vùng nên được người dân hết lòng tin yêu, kính trọng. Cũng tại nơi này, bà đã "thác tích" về cõi Phật khi vẫn còn là một "trinh nữ" không vướng chút bụi trần. Để tỏ lòng tiếc thương công chúa Bạch Hoa vì đã có nhiều công lao với dân chúng trong vùng, người dân ở đây đã đổi tên chùa thành "Trinh Sơn Tự" với mong muốn tôn vinh đức hạnh và trinh tiết của người phụ nữ. Nhưng người dân chỉ quen gọi một cách dân dã là chùa Trinh Tiết, lâu dần thành tên gọi phổ biến được hầu hết mọi người biết đến.
Đại đức Thích Thanh Hưng cho biết thêm, trên đỉnh Bồ Đà còn có Lăng Quy Tượng là một lăng mộ chôn rất nhiều tượng cổ. Đó là những pho tượng lâu đời có chiều cao trên dưới 1m, được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau. Nhưng vì tượng đã bị hư hỏng nên được nhà chùa cùng chính quyền địa phương quy tụ lại đem chôn trên đỉnh núi. Cũng vì lẽ đó mà mộ được đặt tên là tên Lăng Quy Tượng với ý nghĩa chỉ lăng mộ quy tụ các pho tượng.
Hiện nay, trên chùa Trinh Tiết vẫn còn những văn bản chữ Nôm được ghi khắc trên bia đá. Tuy đã bị thời gian bào mòn theo năm tháng, nhưng những vết tích cổ xưa ấy vẫn là một minh chứng sinh động cho lịch sử vàng son của một ngôi chùa được xếp vào loại độc đáo nhất vùng. Nằm trong quần thể di tích Kẽm Trống, trải bao tháng năm lịch sử, chùa Trinh Tiết vẫn còn đó như một biểu tượng bất tử về đức hạnh của người phụ nữ, nhắc người đời sau sống trọn với bốn chữ vàng "Tiết hạnh khả phong".

QUẦN THỂ DI TÍCH DANH THẮNG ĐỌI SƠN




Núi Đọi - sông Châu - biểu tượng thiên nhiên vượt trội, tiêu biểu của tỉnh Hà Nam, cũng như tháp Sùng Diện Thiên Linh xây dựng thời Lý dưới triều Lý Nhân Tông đã và đang lưu dấu trong sử sách, từ lâu xa gần biết tiếng.

Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, xã Đọi Sơn thuộc tổng Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, lúc đó có 3 thôn Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam, về sau ba thôn Trung Tín, Đọi Lĩnh, Đọi Trung được cắt về cho xã Đọi Sơn.

Núi Đọi cùng với núi Đệp là hai ngọn núi đất đột khởi giữa đồng bằng cùng với núi An Lão (Quế sơn) ở xã An Lão, Bình Lục được tạo thành bởi vận động kiến tạo cách ngày nay khoảng 250 triệu năm. Ba ngọn núi, 3 ở phía bắc tỉnh và một ở phía nam tỉnh cùng với sông Châu, sông Ninh (có người nhầm là sông Đào). Ghi một dấu ấn sơn thuỷ riêng của Hà Nam. Nếu chỉ chọn một biểu tượng, tất nhiên chỉ một điển hình là núi Đọi - sông Châu, nếu cần thêm biểu tượng phụ nữa thì có thể kể núi Quế - sông Ninh, Cấm Sơn - Sông Đáy.

Thời Lý chùa mang tên là Long Đội Sơn (hàm rồng), sau vào thời Hậu Lê đổi thành Đọi Sơn. Núi nằm ở giữa xã, cao khoảng 400m, chu vi khoảng 2500m. Quanh chân núi có chín cái giếng tự nhiên, dân gian gọi là chín mắt rồng. Từ trên đỉnh núi phóng tầm mắt ra bốn phía phong cảnh thật nên thơ. Cánh đồng lúa, bãi ngô, ruộng khoai mượt mà, tươi xanh, xa xa dòng Châu Giang quanh co lượn khúc như dải lụa uốn éo chảy xuyên giữa.

Thuyết phong thuỷ nói rằng nơi đây phát nghiệp vương bá:

                             Đầu gối núi Đọi

                             Chân dọi Tuần Vường

                             Phát tích đế Vương

                             Lưu truyền vạn đại

Xung quanh chân núi đã phát hiện được nhiều mộ cuốn vòm kiểu Hán, đầu người chết quay vào núi. Đợt khai quật mộ thuyền ở xã Yên Bắc các nhà khảo cổ lại một lần chứng kiến đầu các ngôi mộ cũng nằm hướng núi Đọi. Có thể nhận định từ xa xưa, ít ra cũng vào thế kỷ I trước công nguyên tín ngưỡng dân gian đã coi Đọi Sơn là trái “núi Thiêng”.

Sông Châu, chảy qua xã, con đường nước nối sông Hồng với sông Đáy với các bến đò giao thương khá nhộn nhịp, thời gian còn lưu lại địa danh: chợ Dâu, gò bến…Con đường thiên lý xưa từng có một nhánh chạy qua bên Câu Tử vào đất huyện Duy Tiên qua xã Đọi Sơn để lên kinh thành Thăng Long. Kết quả khảo sát năm 2004 của Bảo tàng tỉnh Hà Nam phối hợp với các nhà nghiên cứu Trung ương, bước đầu nhận định: tháng 7 năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô từ thành Hoa Lư về Đại La theo lộ trình đường thuỷ là chính: kinh đô Hoa Lư - sông Hoàng Long - sông Đáy - sông Châu. Đoàn thuyền Ngự đã qua đoạn sông Châu trên đất xã Đọi Sơn ngày nay ra cửa Lỗ Hà để vào sông Hồng rồi ngược lên Thăng Long.

Đọi Sơn - một vùng nông trang trù phú. Sông Châu chảy qua phía Đông xã, trước đây cung cấp lượng phù sa dồi dào làm mầu mỡ cho đất đai. Bãi dâu ven sông Châu quanh năm tươi tốt, nghề trồng dâu nuôi tằm được phát triển từ lâu trong vùng ở Tiên Phong, Mộc Nam…Mưu thuận gió hoà, cây cối tươi tốt ở đất này tôn nổi trái núi thiêng, sông nước trữ tình từng gắn bó với nhiều tao nhân mặc khách thăm thú, đề thơ vịnh cảnh như: Đàm Cửu Chỉ (thời Lý), Nguyễn Phi Khanh, Lê Thánh Tông (Thời Hậu Lê), Bùi Văn Dị, Nguyễn Khuyến, Vũ Duy Vĩ (thời Nguyễn).

Khách lên thăm chùa Đọi sẽ được thưởng thức hương vị thơm chát đậm đà của chè xanh núi Đọi.

Lần theo lịch sử, những di tích đầu tiên ở núi Đọi là khu mộ táng cổ có niên đại trước sau công nguyên ở khu vực ven Đầm Vực, khu Ao Ấu và gò con Lợn. Từ khu di chỉ đến chân núi chỉ khoảng 1km. Trong 11 ngôi mộ có ba ngôi thuộc loại quan tài hình thuyền, hai ngôi mộ đất kè đá, bốn ngôi mộ dát giường. Các ngôi mộ cũng quay đầu vào núi. Hiện vật chôn theo người chết được tìm thấy trong năm ngôi mộ chủ yếu là đồng hồ, đáng chú ý là con dao gặt lúa. Qua phân tích di cốt và di vật cho thấy người cổ Đọi Sơn mang những nét của chủng tộc Anh Đô Nê Diêng điển hình và họ đã sống vào thời kỳ xã hội bước đầu có sự phân hoá giàu nghèo, nghề canh tác lúa nước đã rất phát triển.

Cũng ở núi Đọi các nhà khảo cổ còn phát hiện trống đồng Đông Sơn  thuộc loại Heger IV có niên đại thế kỷ I trước công nguyên (loại hình duy nhất được biết ở Hà Nam) cùng một số đồ đồng Đông Sơn không nằm trong mộ, trong đó có chiếc rìu đồng lưỡi hình tròn, gót tròn.

Sử cũ chép lại: Mùa xuân năm 987 vua Lê Đại Hành về Đọi Sơn cày ruộng tịnh điền được một chĩnh vàng và một chĩnh bạc gọi là ruộng Kim Ngân. Như vậy mảnh đất này lần đầu tiên mở ra một tục lệ đẹp mà Lê Hoàn là người khởi xướng, các triều đại từ Lý đến Nguyễn noi theo…Thời gian đã hơn 1000 năm nhưng các địa danh ghi dấu sự kiện này vẫn còn đậm nét như: Nhà Hiến, dinh Trong, dinh Ngoài, tàu ngựa liên tiếp đến nhà vua và quan quân khi ở đây.

Nhà Lý đã sớm chú ý đến ngọn núi án ngữ ở mặt nam kinh thành Thăng Long, cũng lại mang ý nghĩa phong phú trấn yểm. Vì thế khoảng thời gian những năm Long Thuỵ Thái Bình (1054-1058) triều vua Lý Thánh Tông, tể tướng Dương Đạo Gia đã cho xây dựng ngôi chùa trên núi Đọi. Thiền sư Đàm Cửu Chỉ thế hệ thứ 7 của dòng Thiền Quang Bích nổi tiến trong tông phái Phật Giáo đã về đây trụ trì. Tên chùa Diên Linh và núi Long Đọi đã có từ thời đó.

Nhưng Đọi Sơn chỉ thực sự nổi tiếng kể từ khi vua Lý Nhân Tông cho xây dựng ngôi chùa và cây tháp Sùng Thiện Diên Linh năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118), khởi công vào tháng 5 đến chùa Thiên Phù Duệ Vũ thứ 3 (1121) thì hoàn thành. Tháng 3 năm Nhâm Dần (1122)nhà vua mở hội khánh thành chùa Tháp.

Toàn bộ công trình kiến trúc quý báu đó đã bị quân Minh tàn bạo sang xâm lược nước ta phá huỷ. May mắn còn sót lại tấm bia Sùng Thiện Diên Linh và 6 pho tượng Kim Cương, tượng thần Kinaras. Trải qua các triều Hậu Lê, Mạc, Nguyễn có khôi phục lại chùa. Lần tu bổ lớn nhất vào thời Nguyễn, quy mô chùa trên 100 gian, lớn nhỏ thiết kế nội, ngoại quốc. Chùa Đọi thời Lý xếp hạng là “Đại danh lam” kiêm hành cung, thời Pháp từng được liệt vào hạng các cổ tích danh thắng để bảo vệ.

Tháng 3 năm 1947 chùa Đọi bị chiến tranh phá huỷ. Sau này hoà bình lập lại ở phía Bắc, chính quyền và nhân dân đã tích cực tiến hành tu bổ, lần lớn nhất vào năm 1958 đã hoàn tất những công trình chính tại đây. Năm 1992 chùa Đọi được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Từ đây công tác tu bổ, tôn tạo di tích ngày càng được quan tâm, từng bước khôi phục các hạng mục. Đặc biệt năm 2002 một dự án tu bổ, tôn tạo lớp quần thể di tích danh thắng Đọi Sơn với vốn đầu tư từ Trung ương trên 10 tỷ đồng. Bước đầu tiên đặt cơ sở cho việc xây dựng dự án là tiến hành khai quật khảo cổ học để tìm lại dấu tích của tháp Sùng Thiện Diên Linh và bình đồ kiến trúc thời Lý. Đó cũng là sự mong đợi từ lâu của các nhà nghiên cứu nay mới được thực hiện. Cuộc khai quật do bảo tàng lịch sử Việt Nam chủ trì với sự tham gia đóng góp ý kiến của các giáo sư, tiến sỹ có uy tín thu được kết quả khả quan. Trong hố khai quật nằm giữa Hậu Cung của chùa và nhà hậu đã tìm thấy nền móng, các vật liệu kiến trúc cùng nhiều hiện vật thời Lý như tiêu bản trang trí, đồ gốm, đồ sành, kim khí. Đặc biệt có một số di vật quý có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao.

Sau khi hoàn thành khai quật công việc tu bổ được tiến hành khẩn trương theo thiết kế kỹ thuật được thẩm định chu đáo.

Dự án tu bổ tôn tạo hoàn thành quần thể di tích danh thắng có một diện mạo mới với các công trình được xây dựng mới hoặc trùng tu: nhà khách, bãi để xe, cổng chùa, đường lên, toà tam bảo, phủ mẫu, đền Cổ Bồng, nhà tổ, nhà ở của tăng ni, mạng lưới cung cấp điện nước…Điều cần nhấn mạnh là công tác tu bổ, tôn tạo đã tuân thủ nghiêm túc các tiêu chí, nguyên tắc khoa học từ khi lập dự án đến quá trình thi công.

Còn phải kể thêm những di tích khác của quần thể nàỳ. Đó là việc phát hiện hai ngôi mộ cổ thờ Hậu Lê nằm ở rìa phía bắc Đầm Vực, phía đông Ao Ấu, cách núi Đọi khoảng 300m về phía nam. Hai ngôi mộ có niên đại Cảnh Hưng (1740-1786) triều vua Lê Hiển Tông giúp chúng ta hiểu thêm về phong tục mai táng và sự phân hoá giàu nghèo thời đó. Cũng là lần đầu tiên chúng ta phát hiện Văn từ huyện Duy Tiên ở trên núi về phía tây bắc cách ngôi mộ chùa khoảng 500m. Văn từ có quy mô khá lớn nhưng bị thực dân Pháp phá huỷ lấy vật liệu về xây bốt Điệp. Nay chỉ còn lại 6 bia đá, trong đó có 3 bia còn đọc được, thống kê các đỗ đạt của huyện từ thời Hậu Lê đến Nguyễn, cung cấp nguồn tư liệu rất có giá trị, trong đó có nhiều vị khoa bảng các cuốn “Đăng Khoa Lục” trước đây bỏ sót.

Lễ hội chùa Đọi hàng năm mở từ 12/3-21/3 âm lịch, chính hội vào ngày 21 là một lễ hội lớn thu hút rất đông du khách xa gần đến dự và vãn cảnh. Lễ hội với đám rước kiệu từ chân núi lên chùa nhằm tưởng nhớ Lý Nhân Tông và bà Ỷ Lan, người có công xây dựng mở mang ngôi chùa sau đó là lễ dâng hương, tế nam quan, tế nữ quan tạ ơn trời Phật. Các trò hội có chơi cờ người, đấu vật, hát đối…và thi đấu thể thao. Tuy nhiên, lễ hội chùa Đọi mang tính chất Phật giáo nên việc tổ chức cần dày công hơn, cần đầu tư công sức nghiên cứu nghi lễ, trò vè cổ truyền đã từng mai một. Nên chăng về lâu dài đào hồ, dựng thuỷ tình mời đội rối nước về trình diễn để phục hiện một bộ môn nghệ thuật độc đáo đã được mô tả trên bia Sùng Thiện Diên Linh ở chính nơi tạc dựng tấm bia này.

Quần thể di tích - danh thắng Đọi Sơn ngày một đậm lên giá trị lịch sử , văn hoá và du lịch. Văn hoá vật thể đã được tu bổ tôn tạo. Văn hoá phi vật thể từng bước được làm phong phú. Đọi Sơn có trở thành điểm nhấn, dấu soi trên bản đồ du lịch Hà Nam như một sức hút không gì cưỡng được của khách du lịch hay không thì còn nhiều việc cần làm.



ĐỀN LẢNH GIANG MỘT ĐỊA CHỈ DU LỊCH TÂM LINH

 

Đền Lảnh Giang thuộc thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên bên bờ hữu ngạn sông Hồng, sát cạnh chân đê nối với các tỉnh, Hà Nội, Nam Định nên rất thuận tiện cho giao lưu bằng đường sông và đường bộ.
Đền Lảnh Giang thờ 3 vị tướng thời Hùng Duệ Vương. Căn cứ vào cuốn thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (Sự tích ra đời của một vị thuỷ thần triều vua Hùng) cùng sắc phong câu đối, truyền thuyết của địa phương thì ba vị tướng này đều là con của Bát Hải Long Vương và nàng Quý. Khi giặc phương bắc kéo tới bao vây bờ cõi đánh chiếm nước ta, định cướp ngôi báu của Hùng Duệ Vương thì ba ông đã giúp vua Hùng đánh tan giặc giữ yên bờ cõi giang sơn.
Cùng với việc thờ ba vị tướng thời Hùng, đền Lảnh Giang còn thờ Tiên Dung công chúa con gái vua Hùng và thờ Chử Đồng Tử một trong bốn vị thần bất tử của dân tộc. Câu chuyện tình của hai người là một “Thiên tình sử” đẹp, được dân gian phủ lên chất huyền thoại lung linh.
Đền Lảnh Giang là một công trình kiến trúc quy mô mang đậm nét phong cách cổ truyền của dân tộc. Tổng thể kiến trúc gồm ba toà với 14 gian lớn nhỏ làm theo kiểu chữ Công. Hai bên có nhà khách, mặt bằng nội công ngoại quốc. Đặc biệt toà Trung đường làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái cong…

Bàn tay khéo léo của các nghệ nhân xưa đục, chạm, gọt, tỉa tạo nên các mảng trạm khắc với các đề tài tứ linh (Long, Ly ,Quy, Phượng) cổ kính trang nghiêm và thanh thoát sinh động.
Trong quần thể di tích đền Lảnh Giang còn có đền Cửa Sông (Đền cờ) cách đền Lảnh Giang độ 50m về phía đông. Đền Cửa Sông cũng là một công trình kiến trúc đồ sộ làm theo kiểu chồng diêm mái cong lợp ngói nam, mặt tiền giáp với sông hồng, cảnh quan thật thơ mộng, sóng nước dạt dào.
Không xa đền Lảnh Giang về phía tây qua đê là đền thờ vua Lê. Sắc phong còn lại ở đền cho biết, đây là ngôi đền thờ vua Lê Thái Tổ Cao Hoàng đế. Sở dĩ dân lập đền thờ, vì vua Lê đã về đây để kiểm tra các quan lại của địa phương việc thi hành các luật lệ của Triều đình. Tại khu vực đền vua Lê còn có các địa danh như: khu vườn vua, khu sân chơi, khu mâm sôi đắp rồng chầu phượng múa, khu dinh ngự…đã phần nào chứng minh sự kiện vi hành của vua.
Đến thăm quần thể di tích đền Lảnh Giang du khách sẽ có dịp dự lễ hội của đền. Lễ hội hàng năm mở cửa vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 hàng năm. Tục lệ xưa: Ngày 18 nhân dân địa phương tổ chức chồng kiệu, kéo cờ thần trước cửa đền, Những ngày sau là công việc chuẩn bị cho tế lễ. Ngày 21 làm lễ cáo kỵ, từ 22 – 24 là chính tế, ngày 25 lễ tạ, hạ cờ. Đồ tế thường là cỗ chay, lợn đen, rượu, hoa quả, bánh trái…
Cùng với tế lễ, địa phương còn tổ chức rước kiệu thánh xung quanh đền. Trong những ngày tế chính nhân dân các thôn xã lân cận Hoàn Dương, Đô quan, đền Yên Từ - nơi thờ Nguyệt Hoa công chúa đệ nhị cung tần cua Hùng thứ 18 (Hùng Duệ Vương) cũng đều chồng kiệu rước về đền Lảnh Giang bái vọng.
Phần hội được tổ chức phong phú đa dạng với các trò chơi truyền thống như múa rồng, múa lân, múa sư tử, võ thuật, đánh gậy, chọi gà, tổ tôm điếm, bắt vịt dưới nước, cùng các hoạt động văn nghệ như chiếu chèo sân đền…
Bên cạnh các trò chơi truyền thống, các hoạt động văn hoá thể thao diễn ra càng làm tăng thêm không khí tưng bừng của ngày hội như thi đấu cầu lông, bóng bàn, bóng truyền, bóng đá và các tối giao lưu văn nghệ giữa các thôn trong xã và giữa các xã trong huyện.
Lễ hội đền Lảnh Giang là dịp để nhân dân tưởng nhớ những người có công với dân với nước, đồng thời động viên mọi người phấn đấu yên tâm xây dựng gia đình, quê hương đất nước.
Từ lâu đền Lảnh Giang vẫn được coi là nơi linh thiêng. Khách đến đề Lảnh Giang  không chỉ vào hai kỳ tháng 6 và tháng 8 mở lễ hội, mà những năm gần đây diễn ra hầu như quanh năm. Khách ở nhiều tỉnh thành phố như Hà Nội, Hải Phòng , thành phố Hồ Chí Minh … về đây để được đáp ứng nhiều nhu cầu: tín ngưỡng, tâm linh, tìm hiểu lịch sử, thưởng ngoạn cảnh đẹp…
Với vị trí địa lý thuận lợi, đền Lảnh Giang nằm kề ngay sông Hồng, trong một vùng có nhiều di tích và dấu ấn lịch sử, cảnh quan thơ mộng trên bến dưới thuyền, đối diện bên kia sông Hông là phố Hiến (Hưng Yên) nổi tiếng một thời “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì phố Hiến”, đền Lảnh Giang đã và đang tạo sức hút đối với du khách xa gần, là một địa chỉ du lịch đầy triển vọng.

VỀ KỄM TRỐNG THĂM "NAM THIÊN ĐỆ TAM ĐỘNG"


Về Kẽm Trống thăm "Nam thiên đệ tam động"

Cách Hà Nội 80km về phía Nam, Kẽm Trống (xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm) là một danh thắng độc đáo được tạo ra bởi sông Đáy là ranh giới giữa Hà Nam - Ninh Bình. Năm 1962, Kẽm Trống được công nhận là một di tích thắng cảnh quốc gia. Xưa kia, khi qua nơi này, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã viết:

"Hai bên thì núi, giữa thì sông.

Có phải đây là Kẽm Trống không?

Gió dập sườn non khua lắc cắc

Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.

Ở trong hang núi còn hơi hẹp,

Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.

Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại,

Nào ai có biết nỗi bưng bồng".

Những dãy núi quanh Kẽm Trống có nhiều hang động. Nhưng được nhắc đến nhiều nhất trong đó là Địch Lộng. Nơi này nổi tiếng bởi ngoài vẻ đẹp của động, còn có một khu đình chùa cổ kính. Quần thể động - chùa Địch Lộng đẹp tới mức đã được vua Minh Mạng ban tặng cho 5 chữ "Nam thiên đệ tam động", có nghĩa là động đẹp thứ ba ở trời Nam.

Tương truyền, vào năm 1739, một tiều phu đi kiếm củi, leo lên núi đã phát hiện ra cửa động. Khi vào trong, thấy có nhiều nhũ đá đẹp, đặc biệt trông thấy một nhũ đá có hình giống như tượng Phật nên lập bàn thờ Phật ở đó. Đến năm 1740 thì hình thành chùa.

Nói Động - Chùa Địch Lộng là nói gọn, chứ thực ra tại đây còn có đình với 16 cột đá nguyên khối, nên còn gọi là "đình đá"; có đền thờ Lý Quốc Sư; hồ bán nguyệt, 5 tháp cao ba tầng; ba gian chùa Hạ, ở gian giữa có treo cuốn thư chữ Hán "Lưu Ly Bảo Điện" nói lên sự quý giá của ngôi chùa...

Từ Chùa Hạ qua phủ Đức Ông, tiếp tục leo lên thêm 105 bậc đá nữa sẽ đến hang động khiến bạn không thể không sửng sốt trước sự kỳ diệu của tạo hóa và sức tưởng tượng vô biên của con người. Trên cửa động đề 6 chữ: "Nham Sơn động, Cổ Am tự" là tên "cúng cơm" của Động - Chùa Địch Lộng.

Hai bên cửa động có hai tượng Hộ Pháp, trên mái vòm hang đá cao 8 mét treo quả chuông nặng gần một tấn, được đúc từ thời nhà Nguyễn. Sân trước động có phủ thờ Bà Chúa Thượng Ngàn, phủ thờ Đức Thánh Mẫu. Cũng tại đây, hai "giếng ngọc" quanh năm đón những giọt nước từ nhũ đá liên tục nhỏ xuống mát rượi, có tượng ông Thiện, ông Ác cưỡi trên sư tử.

Đứng tại "sân" này, phía bên phải là ngôi chùa có "mái" là vòm hang cao khoảng 20 mét, sâu khoảng 30 - 40 mét với khá nhiều tượng được sắp xếp từ ngoài vào trong, từ thấp lên cao. Đặc biệt là 3 pho tượng Tam Thế Phật sơn son thiếp vàng được ban vào thời vua Thiệu Trị và tượng Phật Bà Quan Âm, tượng A Di Đà được tạc bằng đá xanh nguyên khối.

Trong động Địch Lộng còn có hang Tối và hang Sáng. Hang Tối nằm ở phía trái. Vào hang, du khách sẽ cảm thấy choáng ngợp bởi khối nhũ đá to, tròn, nhẵn lì mọc từ nền hang nhô lên. Tục truyền, đó là bầu sữa mẹ của tạo hoá. Từ trên nóc động, có nhiều nhũ đá chảy xuống trông giống như những cột chống trời.

Tại đây, bạn sẽ có cảm giác như lạc vào cõi trùng điệp của đá với đủ mọi hình dáng ngoạn mục. Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ thuật, những nét chạm khắc tuyệt vời của thiên nhiên, đạt đến mức tinh xảo mà con người không thể nào làm được.

Đi hết hang Tối là đến hang Sáng. Ở trên cao, cửa hang Sáng thắt hẹp lại. Một khoảng lộ thiên, khi có gió thổi mạnh vào trong động phát ra âm thanh của đá nghe như tiếng sáo. Vì vậy động mang tên là Địch Lộng, nghĩa là ống sáo thổi gió. Điều độc đáo ở hang Tối và hang Sáng là các thạch nhũ, lấy đá gõ vào thì lanh lảnh như tiếng chuông.

Đó là những thạch cầm của thiên nhiên. Đặc biệt hơn nữa là những dải nhũ đá trong hang lấp lánh bảy sắc cầu vồng và mầu sắc thay đổi theo ánh sáng mặt trời.

Cùng với nét đẹp mê hồn, Động - Chùa Địch Lộng còn là di tích lịch sử trong kháng chiến chống Pháp và là nơi điều trị cho các nạn nhân của bom đạn Mỹ những năm chiến tranh ác liệt./.

 

 

 


LỊCH VÀ ĐỊA ĐIỂM DIỄN RA CÁC MÔN THI ĐẤU ĐẠI HỘI TDTT TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII - NĂM 2014



 

KẾT QUẢ GIẢI VOVINAM ĐẠI HỘI TDTT TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII - NĂM 2014


Môn vovinam trong chương trình ĐH TDTT toàn quốc lần thứ VII/2014 đã khép lại với vị trí dẫn đầu thuộc về đoàn TP.HCM với 9 HCV, 1 HCB, 1 HCĐ.
Hôm qua (7/12) đã diễn ra các nội dung đối kháng ở hạng cân 68kg, 75kg nam và 63 kg nữ. Tâm điểm của ngày thi đấu cuối cùng thuộc về hai đoàn Quân Đội và Thanh Hóa . Vì đang bằng số HCV trên bảng tổng sắp nên Quân đội xếp thứ 3 do có nhiều hơn Thanh Hóa số HCB, chính vì thế nên trong ngày thi đấu nay, cả hai đoàn tham gia với quyết tâm cao độ để đảm bảo vị trí trong top 3 toàn đoàn.
VĐV Nguyễn Sơn Ca, đoàn Quân Đội (giáp xanh) giành HCV hạng 63kg. (ảnh Hoàng Tuân).
Tại trận chung kết ở nội dung 63 kg nữ, khán giả tại Nhà thi đấu Trần Quốc Toản – TP. Nam Định đã được chứng kiến cuộc tranh tài bất phân thắng bại giữa Nguyễn Sơn Ca (Quân đội) và Phùng Thu Hà (Công an). Cả hai đều giằng có và có những cú ra đòn thận trọng ở hiệp 1. Sang hiệp 2, VĐV của Quân Đội đã tung những đòn tấn công quyết liệt về phía đối phương nhưng gặp phải sự chống trả quyết liệt của VĐV Phùng Thu Hà của Công An. Sau 2 hiệp hòa 0-0, tổ giám định đánh giá cả hai đều không mắc lỗi nào nên phân thắng bại bằng số cân. Vì có số cân nhẹ hơn đối thủ nên Nguyễn Sơn Ca đã giành HCV.
Sau khi Quân đội giành thêm được 1 HCV nên các VĐV Thanh Hóa lại càng thi đấu quyết liệt hơn khi có tới 2 VĐV lọt vào chung kết. Tuy nhiên, may mắn đã không đến với đoàn Thanh Hóa khi Lưu Đức Hiệp đã để thua với kết quả 0-2 nhường chiếc HCV cho Trương Văn Mạo của đơn vị Nghệ An.
Trọng trách và cũng là niềm hy vọng cuối cùng được đặt vào võ sĩ trẻ Nguyễn Tiến Sơn khi anh chạm trán đối thủ Phạm Trường Sa (Bình Dương). Tuy nhiên ngay những giây đầu tiên VĐV Thanh Hóa đã đối phương tung ra những cú đòn chân hiệu quả và dẫn trước 0-1. Sau đó, với pha bắt chân đánh ngã, Trường Sa bị bắt lỗi và bị trừ 1 điểm , cùng với đó Tiến Sơn được 1 điểm. Với tâm lý hưng phấn, VĐV của Thanh Hóa thi đấu khá thoải mái, ngay sau đó anh ghi thêm 2 điểm để giành HCV.
Kết thúc lượt trận chung kết sáng 7/12, Thanh Hóa chỉ giành được 1 HCV thua số HCB và chấp nhận đứng thứ 4 toàn đoàn sau TP.HCM, Cần Thơ, Quân Đội.

KHAI MẠC GIẢI VOVINAM ĐẠI HỘI TDTT TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII - NĂM 2014



Ngày 02/12/2014, tại Nhà thi đấu Trần Quốc Toản tỉnh Nam Định, giải Vovinam trong chương trình Đại Hội TDTT toàn quốc năm 2014 đã được Khai mạc. Tập đoàn Dệt May Việt Nam – Vinatex tiếp tục là Nhà tài trợ kim cương cho Liên đoàn Vovinam Việt Namtrong toàn bộ các giải đấu năm 2014.
Nam Định vinh dự là tỉnh được đăng cai tổ chức Đại Hội TDTT toàn quốc lần VII, năm 2014. Ngoài các quan chức ngành Thể thao, Nam Định chào đón hơn 400 vận động viên từ 33 đoàn thể thao của các tỉnh, thành phố trong cả nước về dự Đại hội lần này. Trong 13 môn của Đại hội, đặc biệt có Giải Vovinam được tổ chức từ ngày 02-07/12/2014.
Tham dự Lễ khai mạc có đầy đủ các vị lãnh đạo, đại biểu trung ương và Liên đoàn Vovinam quốc gia, cho thấy Giải đấu ngày càng được quan tâm nhiều hơn từ phía ngành chủ quản. Và với sự quan tâm đó còn là sự hỗ trợ  tích cực của nhà tài trợ Vinatex và đơn vị đăng cai, để Giải đấu góp phần tạo nên dấu ấn mạnh mẽ, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của phong trào Vovinam Việt Nam.
Ngay trong đêm khai mạc Giải Vovinam, đã có hai trận chung kết của hai hạng cân 45kg (nữ), và 59kg (nam). Các võ sỹ tranh tài sôi nổi, quyết liệt và hấp dẫn, đặc biệt thu hút quan khách và khán giả tới dự Lễ khai mạc.
Dưới đây là một số hình ảnh trong Lễ Khai mạc giải Vovinam Đại Hội TDTT toàn quốc năm 2014:

 


    

Ông Lê Tiến Trường - Tổng Giám đốc Vinatex trao cờ và Huy chương cho các võ sỹ.

 

Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Liên đoàn Vovinam trao kỷ niệm chương cho TGĐ Vinatex Lê Tiến Trường - đại diện nhà tài trợ cho Liên đoàn Vovinam.

 

Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Liên đoàn Vovinam trao đổi với võ sỹ và Chánh Chưởng quản môn phái Vovinam trước giờ thi đấu.


 

Các võ sỹ tranh tài sôi nổi, quyết liệt và hấp dẫn.