Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014
TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO
![]() |
Đạo đức với võ thuật |
Võ Đức là linh hồn của võ thuật. Tôn cao võ đức là truyền thống tốt đẹp mấy ngàn năm nay của giới võ thuật. Thời cổ đại "trí, nhân, dũng" gọi là ba đức, tức là "người trí không ngờ vực, người nhân không lo phiền, người dũng không sợ hãi". Võ đức cũng cần trí, nhân, dũng vậy. Mạnh Tử đề xướng "đại dũng", phản đối "tiểu dũng". Ông chủ trương võ dũng phải dùng vào việc lớn cho nước cho dân mà không cần loại dũng chỉ biết hiếu dũng đấu đá, làm theo tính khí "cái dũng của kẻ thất phu". Đủ thấy từ thời cổ đại đã nói về võ đức rồi.
Các phái, các nhà võ thuật đều đề xướng người tập võ phải lấy việc tu dưỡng thân, tâm làm tôn chỉ, lấy tự vệ làm đức tin; phản đối cậy dũng đấu đá, cậy mạnh hiếp yếu; tuân giữ đạo đức công cộng của xã hội, tôn sư trọng đạo, phò nguy cứu khốn, "lấy đức dầy chở vật". Đối với võ đức đều có yêu cầu cực kỳ nghiêm ngặt. Ví như nội gia quyền Võ Đang yêu cầu người tập võ phải "lập tâm vì trời đất, lập mệnh vì nhân dân, cấm gây chuyện cấm bạo hành". Đời Minh, nội gia quyền có năm loại không truyền: kẻ tâm hiểm, kẻ hay đấu đá, kẻ nát rượu, kẻ hời hợt lộ liễu, kẻ xương mềm chất ngu độn.
Bốn loại kẻ kể trên là có liên quan đến võ đức, những kẻ như vậy thì khó có hy vọng có được võ đức, chẳng nên truyền dạy làm gì. Thời Minh, trong "Thiếu Lâm thập điều giới ước" (10 điều ngăn cấm của Thiếu Lâm) có ghi "truyền dạy học trò cần chọn lọc thận trọng, nếu xác nhận là kẻ sĩ thật thà giản dị, hồn hậu, trung nghĩa thì có thể đem kỹ thuật truyền dạy cho", "người tập luyện thuật này lấy khoẻ thể xác tâm hồn làm tôn chỉ trọng yếu, quen làm việc sớm tối, không được tuỳ ý ngưng nghỉ", "quen có lòng từ bi sâu sắc của cửa Phật, nhàn nhã quen với kỹ thuật, chỉ được sẵn sàng tự vệ, cấm tuyệt bừa bãi theo huyết khí riêng có hành động hiếu dũng ham đấu đá. Kẻ phạm lỗi làm ngược lại thanh quy cùng tội". "Thường ngày đối đãi với sư trưởng (chỉ thầy và người trên như sư bá, sư thúc, sư huynh, v.v..) phải biết kính cẩn làm việc, không được có hành vi chống trả ngạo mạn", "cứu nguy phò khốn, nhẫn nhục mà giúp đời, phải giữ là người đã quy theo cửa Phật, tự mình luôn lấy từ bi làm chủ, không được có hành vi cậy khoẻ hiếp yếu", "nữ sắc nam phong(tính), phạm phải tất trời trách mà cửa Phật ta cũng khó dung tha. Phàm các đệ tử của Thiền Tông ta phải theo điều răn cấm sáng này chớ đừng chú ý...".
Như trên đã nói võ đức bao giờ cũng đứng hàng đầu. "Đức còn trước nghệ", đúng y như khuôn vàng thước ngọc ở các nghề nghiệp khác.
Bốn loại kẻ kể trên là có liên quan đến võ đức, những kẻ như vậy thì khó có hy vọng có được võ đức, chẳng nên truyền dạy làm gì. Thời Minh, trong "Thiếu Lâm thập điều giới ước" (10 điều ngăn cấm của Thiếu Lâm) có ghi "truyền dạy học trò cần chọn lọc thận trọng, nếu xác nhận là kẻ sĩ thật thà giản dị, hồn hậu, trung nghĩa thì có thể đem kỹ thuật truyền dạy cho", "người tập luyện thuật này lấy khoẻ thể xác tâm hồn làm tôn chỉ trọng yếu, quen làm việc sớm tối, không được tuỳ ý ngưng nghỉ", "quen có lòng từ bi sâu sắc của cửa Phật, nhàn nhã quen với kỹ thuật, chỉ được sẵn sàng tự vệ, cấm tuyệt bừa bãi theo huyết khí riêng có hành động hiếu dũng ham đấu đá. Kẻ phạm lỗi làm ngược lại thanh quy cùng tội". "Thường ngày đối đãi với sư trưởng (chỉ thầy và người trên như sư bá, sư thúc, sư huynh, v.v..) phải biết kính cẩn làm việc, không được có hành vi chống trả ngạo mạn", "cứu nguy phò khốn, nhẫn nhục mà giúp đời, phải giữ là người đã quy theo cửa Phật, tự mình luôn lấy từ bi làm chủ, không được có hành vi cậy khoẻ hiếp yếu", "nữ sắc nam phong(tính), phạm phải tất trời trách mà cửa Phật ta cũng khó dung tha. Phàm các đệ tử của Thiền Tông ta phải theo điều răn cấm sáng này chớ đừng chú ý...".
Như trên đã nói võ đức bao giờ cũng đứng hàng đầu. "Đức còn trước nghệ", đúng y như khuôn vàng thước ngọc ở các nghề nghiệp khác.
TÔI SẼ ĐỨNG LÊN TỪ CHÍNH NƠI TÔI VẤP NGÃ!
Có một chàng trai năm nay đã mười sáu, mười bảy tuổi, nhưng chẳng có chút khí chất gì của một trang nam tử cả. Cha của cậu cảm thấy rất buồn vì điều đó,sau khi đã suy nghĩ rất lâu ông đã quyết định đưa con mình đi gặp một võ sư, nhờ võ sư luyện tập cho con, với mong muốn sẽ giúp con trai trở thành một đấng mày râu thật sự
Vị võ sư đó nói:”Ông hãy để con trai lại đây với tôi nửa năm, trong thời gian đó, ông không không được gặp con, đảm bảo sau nửa năm con trai ông sẽ trở thành một người đàn ông đích thực!”
Nửa năm sau, cha của chàng trai đến đón con mình, vị võ sư nọ đã bố trí một trận thi đấu, để cho cha cậu xem thành tích mà cậu đã học tập được trong nửa năm qua, người đánh cặp với chàng trai chính là một huấn luyện viên võ thuật, nhưng không ngờ khi vị huấn luyện viên đó ra đòn, chàng trai đã ngã gục xuống ngay. Nhưng sau khi ngã, cậu ta đã đứng dậy ngay và lập tức đối mặt với thách thức mới…Cứ như vậy cậu đã đứng lên, ngã xuống tất cả hơn 20 lần.
Vị võ sư hỏi người đàn ông kia rằng:” Ông thấy con trai mình đã phải là một người đàn ông thực sự chưa?”
“ Tôi thật chẳng còn mặt mũi nào nữa, nghĩ rằng khi đưa con đến đây để cho ông luyện tập nửa năm nó sẽ giỏi giang, ai ngờ bây giờ bị người khác đánh nhẹ một cái đã ngã xuống, làm gì có chí khí của kẻ nam nhi chứ!” - Ông bố hết sức thất vọng nói với vị võ sư.
Vị võ sư trả lời với một đạo lý hết sức sâu sắc rằng: ” Tôi rất tiếc rằng ông chỉ nhìn được sự thắng thua ở bên ngoài, mà không nhìn thấy nghị lực và dũng khí đã giúp con trai ông đứng ngay dậy sau mỗi lần vấp ngã. Đó mới chính là khí chất mà một người đàn ông chân chính phải có!"
CHỮ "ĐỨC" ĐỐI VỚI "CON NHÀ VÕ"
![]() | |||||||||
| Đức trọng nhân trường thọ - Tâm khoan phúc tự lai |
Võ cổ truyền Việt Nam có một cụm từ rất đặc biệt, đó là cụm từ "Con nhà võ". Cụm từ này được sử dụng, không phải để nói đến những người con, cháu trong một dòng võ mà là bao gồm tất cả những người đã chọn con đường võ nghiệp để đi theo suốt đời.
Khi nói đến con nhà võ, người ta nghĩ ngay đến những người nghĩa khí, có lòng dạ ngay thẳng, "ăn to nói lớn", giữ chữ "tín", và đề cao lòng tự trọng.
Người nghĩa khí là người hào hiệp, người sẵn sàng chấp nhận hy sinh cho việc nghĩa.
Việc nghĩa ở phạm vi hẹp là việc ra tay cứu giúp người khác đang gặp khó khăn, hoạn nạn, đang sa cơ thất thế, việc ra tay đó được gọi là "nghĩa cử". Khi người nghĩa khí đã ra tay nghĩa cử thì họ không sợ gian nguy, chỉ nghĩ đến hy sinh cho người khác.
Việc nghĩa ở phạm vị rộng là công việc đại sự, lớn lao, mang lợi ích đến cho nhiều người, việc đại sự đó được gọi là "đại nghĩa". Khi người nghĩa khí đã tham gia đại nghĩa thì họ sẵn sàng dấn thân, gánh vác công việc nặng nhọc, tự nguyện chấp nhận hy sinh, thiệt thòi về phần mình.
Đối với con nhà võ, nếu làm thầy thì việc đại nghĩa là tận tụy dạy dỗ cho học trò nên người hữu dụng mà không ngại hao tâm tổn trí, là bảo tồn, lưu truyền, phát triển môn võ cổ truyền cuả dân tộc cho võ lâm chứ không chỉ cho riêng mình, là nâng cao uy danh của môn võ cổ truyền trở thành niềm tự hào của con dân đất Việt mà không kể công lao.
Người nghĩa khí cũng là người "trọng nghĩa khinh tài", tức là xem trọng việc nghĩa, xem nhẹ tiền bạc. Người có chức vụ càng cao, có trọng trách càng lớn thì nghĩa khí càng phải đặt nặng. Đối với con nhà võ, không vì thế lực đồng tiền mà hạ mình làm việc thấp hèn, làm trái lại mục đích, ý nghĩa, lý tưởng của công việc đại nghĩa mà võ lâm đã ủy thác cho mình, không vì háo danh, hám lợi mà làm phương hại đến uy danh của môn võ cổ truyền dân tộc.
Người có lòng dạ ngay thẳng thì làm việc gì cũng đường đường chính chính, ân oán rõ ràng. "Ruột thẳng như ruột ngựa" là câu nói được nhân gian gắn cho con nhà võ, bởi vì con nhà võ không làm điều mờ ám, khuất tất, mang ơn thì phải ra sức đền đáp, gây oán thì phải tìm cách trả nợ cho người. Con nhà võ không xu nịnh người trước mặt, không ám hại người sau lưng.
Người "ăn to nói lớn" là người bộc bạch thẳng thắng, thấy chi nói nấy, thấy sai thì cải lại. Con nhà võ được thừa hưởng đức tính của người thầy qua nề nếp "dạy trực tiếp, dạy từng người" (cầm tay nắn thế, dĩ giáo khai tâm, dụng ngôn khải thị) nên có được tâm tính khoáng đạt, nói năng lưu loát.
Con nhà võ nói năng lưu loát nhưng không khoác loác, khoe khoang, không ma mị để lừa dối người khác và cũng không chịu để cho người khác tâng bốc mình bằng cách "thêm muối, dặm đường", chuyện không dựng lên nói có.
Con nhà võ không để cho báo chí viết về mình là "đệ nhất thiên hạ", là "người vàng, người ngọc", là "người duy nhất còn nắm giữ thập bát ban võ nghệ", là "võ sĩ thóp bụng giữ chặc đầu đối phương rồi phình ra cho đối phương ngã ngửa trên võ đài phải chở vào bệnh viện cấp cứu", ..v.v.. và ...v.v.
Bởi vậy cổ nhân mới khen tặng người có năng lực mà khiêm tốn là "hữu xạ tự nhiên hương", người có thực tài mà ẩn mình là "ngọc trong đá", và chê người dùng xảo ngôn để thổi phồng mình là "tự vẻ bùa mà đeo".
Người giữ chữ "tín" là người chỉ hứa khi chắc chắn làm được điều đã hứa và đã hứa rồi thì phải nổ lực thực hiện cho được điều mình hứa.
Ngày xưa, người ta rất xem trọng lời hứa. Năm 545 trước công nguyên, Quý Trát là hoàng tử nước Ngô, lĩnh mệnh đi sứ các nước trung nguyên để mở rộng bang giao. Trước khi lên trung nguyên, Quý Trát qua nước Từ. Vua nước Từ thấy thanh kiếm của Quý Trát đeo bên mình đẹp quá, thích lắm nên nhìn mãi. Quý Trát biết ý vua nước Từ thích thanh kiếm, trong lòng muốn tặng nhưng vì trên đường đang đi sứ chưa thể tặng được. Khi từ nước Tấn trở về, Quý Trát qua lại nước Từ để tặng kiếm nhưng vua Từ đã qua đời. Quý Trát bèn ra mộ thắp hương, khấn vái rồi cởi thanh kiếm treo lên bia mộ, quay về. Qua câu chuyện ấy, ta thấy Quý Trát chưa từng mở lời hứa nhưng khi trong lòng đã từng nghĩ đến việc tặng kiếm cho vua nước Từ thì ông tự xem là mình đã hứa rồi, và nhất quyết phải giữ chữ tín với người đã khuất .
Đối với con nhà võ thì việc giữ chữ tín hết sức quan trọng. Nó là thước đo phẩm chất của từng con người. Con nhà võ không thể nói "huyên thuyên chi địa" đầy rẫy những lời hứa hẹn. Thực tế thì những lời huyên thuyên, hứa hẹn ấy chỉ để đề cao cá nhân, để chứng tỏ là mình đang nắm nhiều quyền lực và để phỉnh dụ người khác ủng hộ những việc đang làm của mình. Những lời huyên thuyên ấy không bao giờ là sự thật.
Người có lòng tự trọng là người không để bị người khác xem thường, thậm chí là khinh khi, sỉ nhục. Muốn giữ được lòng tự trọng thì hơn ai hết, con nhà võ phải trung thực, thật thà, làm việc gì cũng phải quang minh, chính đại, không làm điều trái ngược đạo lý, giàu không thay lòng, nghèo không đổi dạ, đứng trước quyền uy không khuất phục, gặp cảnh ngộ nào cũng phải giữ phong thái "chân đạp đất, đầu đội trời".
Con nhà võ không tu dưỡng, rèn luyện để trở thành thần thánh, cũng không để thành bậc đại trượng phu. Họ chỉ rèn luyện cái "Đức" cả đời để xứng đáng với mỹ từ "Con nhà võ" mà nhân gian tôn tặng ./.
Tác giả: Võ sư Trần Xuân Mẫn - Chủ tịch Hội Võ thuật cổ truyền tỉnh Quảng Nam
VÕ SƯ NGUYỄN CHÁNH TỨ NẶNG LÒNG VỚI DƯỠNG SINH VOVINAM
Nhiều năm qua, thời khóa biểu đó không thay đổi, ngoại trừ những khi trời mưa hoặc ông đi công tác hay chấm thi thăng đai nơi xa. Ông là võ sư Nguyễn Chánh Tứ, nguyên Phó giám đốc công viên Văn hóa Đầm Sen và là Tổng thư ký Hội Việt Võ Đạo TPHCM, Trưởng ban Nghiên cứu khoa học Liên đoàn Vovinam Việt Nam, ủy viên Ban Kiểm tra Liên đoàn Vovinam thế giới.
Thời niên thiếu vất vả. Sinh năm 1952 tại Quảng Nam, võ sư Nguyễn Chánh Tứ vào Sài Gòn lúc 8 tuổi. Xa gia đình, ông phải trải qua những tháng ngày niên thiếu cực nhọc. Ở bậc tiểu học, ông nấu cơm cho vài gia đình khá giả và khi lên bậc trung học thì giữ xe ở trường đua Phú Thọ, rạp hát Hồng Bàng, Nam Việt… để có thêm chút tiền ăn học. Về cơ duyên đến với võ nghệ, ông cho biết: “Lúc còn học ở trường tiểu học Cầu Kho, có lần tôi bị mấy anh lớn bắt nạt và giật mất cây bút mực hiệu Pilot mà tôi dành dụm khá lâu mới mua được. Trong bụng ức lắm mà chẳng biết làm sao vì các anh ấy to hơn rất nhiều…
Năm 1966, khi tôi đang học ở trung học Petrus Ký (nay là trường THPT chuyên Lê Hồng Phong) thì môn Vovinam cũng được dạy ngoại khóa tại đây. Những lúc đứng ngoài hành lang xem anh em tập, tôi thường nghe HLV giảng về tinh thần võ đạo, đặc biệt là mục đích học võ của người võ sinh Vovinam là để khỏe mạnh và tự vệ. Nhớ lại chuyện mình bị bắt nạt hồi nhỏ, tôi ghi danh theo học. Không ngờ mối lương duyên đó gắn bó đến hôm nay”. Lúc đầu ông học với võ sư Trần Tấn Vũ, vài năm sau được thọ giáo trực tiếp với Chưởng môn Lê Sáng. Năm 1970, ông dạy Vovinam tại trường tư thục Trần Hưng Đạo, Kỹ thuật Cao Thắng…
Thử võ trên đất Liên Xô. Đất nước thống nhất, võ sư Nguyễn Chánh Tứ tham gia lực lượng Công an và phục vụ trong ngành cho đến năm 1992 mới xin chuyển ngành. Trong thời gian này, bên cạnh công tác nghiệp vụ chuyên môn, ông còn huấn luyện Vovinam cho một vài đơn vị thuộc Công an TPHCM. Năm 1985, ông được sang Liên Xô bồi dưỡng nghiệp vụ khoảng nửa năm và có dịp huấn luyện Vovinam cho một lớp đang theo học tại trường. Ông hồi tưởng: “Học được chừng 2 tháng, qua giới thiệu của vài đồng nghiệp cùng đi với tôi, HLV võ thuật của lớp bảo tôi biểu diễn một số đòn thế. Có lẽ thấy tôi đấm đá xem cũng được nên ông đề nghị tôi huấn luyện cho một lớp khác 3 tối/tuần, trong suốt 4 tháng cho đến khi về nước”.
Cũng tại lớp học đó, có lần một học viên người Nga nặng khoảng 85kg đề nghị thử tài với võ sư Chánh Tứ. Tuy chỉ nặng có 53kg, nhưng tôi vẫn đánh ngã anh ta bằng một một đòn Vovinam mà tôi thường tập luyện.“Đây là một trong vài kỷ niệm đáng nhớ nhất trong võ nghiệp của tôi. Từ khi về nước đến khi Liên Xô thay đổi thể chế nhưng hầu như năm nào tôi cũng nhận được một vài món quà nhỏ hoặc thiệp chúc Tết Dương lịch của các anh em lớp võ ngày đó gửi sang…”, võ sư Chánh Tứ chia sẻ.
Chuyên gia vovinam dưỡng sinh. Về công tác tại khách sạn Phú Thọ, bên cạnh việc huấn luyện võ thuật cho các nhân viên bảo vệ của công ty, ông phối hợp cùng CVVH Đầm Sen tổ chức CLB Vovinam dưỡng sinh miễn phí từ cuối tháng 12/1998. Khởi đầu, CLB chỉ có 17 học viên rồi tăng dần có lúc trên 100 người. Hiện nay, CLB vẫn duy trì khoảng 60 người (2/3 học viên trên 60 tuổi) thường xuyên tập luyện cũng như biểu diễn trong những ngày lễ hội.
Không chỉ giảng dạy trong nước, võ sư Chánh Tứ từng được Vovinam Pháp, Bỉ, Đức, Thụy Sĩ, Algerie mời sang hướng dẫn về kỹ thuật tự vệ, chiến đấu hoặc dưỡng sinh vào các năm 2003, 2006, 2008, 2011, 2012.
Năm 1966, khi tôi đang học ở trung học Petrus Ký (nay là trường THPT chuyên Lê Hồng Phong) thì môn Vovinam cũng được dạy ngoại khóa tại đây. Những lúc đứng ngoài hành lang xem anh em tập, tôi thường nghe HLV giảng về tinh thần võ đạo, đặc biệt là mục đích học võ của người võ sinh Vovinam là để khỏe mạnh và tự vệ. Nhớ lại chuyện mình bị bắt nạt hồi nhỏ, tôi ghi danh theo học. Không ngờ mối lương duyên đó gắn bó đến hôm nay”. Lúc đầu ông học với võ sư Trần Tấn Vũ, vài năm sau được thọ giáo trực tiếp với Chưởng môn Lê Sáng. Năm 1970, ông dạy Vovinam tại trường tư thục Trần Hưng Đạo, Kỹ thuật Cao Thắng…
Thử võ trên đất Liên Xô. Đất nước thống nhất, võ sư Nguyễn Chánh Tứ tham gia lực lượng Công an và phục vụ trong ngành cho đến năm 1992 mới xin chuyển ngành. Trong thời gian này, bên cạnh công tác nghiệp vụ chuyên môn, ông còn huấn luyện Vovinam cho một vài đơn vị thuộc Công an TPHCM. Năm 1985, ông được sang Liên Xô bồi dưỡng nghiệp vụ khoảng nửa năm và có dịp huấn luyện Vovinam cho một lớp đang theo học tại trường. Ông hồi tưởng: “Học được chừng 2 tháng, qua giới thiệu của vài đồng nghiệp cùng đi với tôi, HLV võ thuật của lớp bảo tôi biểu diễn một số đòn thế. Có lẽ thấy tôi đấm đá xem cũng được nên ông đề nghị tôi huấn luyện cho một lớp khác 3 tối/tuần, trong suốt 4 tháng cho đến khi về nước”.
Cũng tại lớp học đó, có lần một học viên người Nga nặng khoảng 85kg đề nghị thử tài với võ sư Chánh Tứ. Tuy chỉ nặng có 53kg, nhưng tôi vẫn đánh ngã anh ta bằng một một đòn Vovinam mà tôi thường tập luyện.“Đây là một trong vài kỷ niệm đáng nhớ nhất trong võ nghiệp của tôi. Từ khi về nước đến khi Liên Xô thay đổi thể chế nhưng hầu như năm nào tôi cũng nhận được một vài món quà nhỏ hoặc thiệp chúc Tết Dương lịch của các anh em lớp võ ngày đó gửi sang…”, võ sư Chánh Tứ chia sẻ.
Chuyên gia vovinam dưỡng sinh. Về công tác tại khách sạn Phú Thọ, bên cạnh việc huấn luyện võ thuật cho các nhân viên bảo vệ của công ty, ông phối hợp cùng CVVH Đầm Sen tổ chức CLB Vovinam dưỡng sinh miễn phí từ cuối tháng 12/1998. Khởi đầu, CLB chỉ có 17 học viên rồi tăng dần có lúc trên 100 người. Hiện nay, CLB vẫn duy trì khoảng 60 người (2/3 học viên trên 60 tuổi) thường xuyên tập luyện cũng như biểu diễn trong những ngày lễ hội.
Không chỉ giảng dạy trong nước, võ sư Chánh Tứ từng được Vovinam Pháp, Bỉ, Đức, Thụy Sĩ, Algerie mời sang hướng dẫn về kỹ thuật tự vệ, chiến đấu hoặc dưỡng sinh vào các năm 2003, 2006, 2008, 2011, 2012.
Tạp chí võ thuật nổi tiếng Karate Bushido của Pháp số tháng 4-2008 đã dành 3 trang giới thiệu về ông cùng những hình ảnh kỹ thuật tự vệ do chính ông trình bày. Những năm gần đây, một số HLV vovinam người nước ngoài đến TPHCM cũng thường đến Đầm Sen thọ giáo ông. Kể từ khi nghỉ hưu (đầu năm 2013), ông đã đến các tỉnh Khánh Hòa, Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận… để tập huấn vovinam dưỡng sinh cho người cao tuổi, đồng thời là Chủ biên của Tủ sách tham khảo Vovinam.
Tính tình hiền hòa, dễ mến, võ sư Chánh Tứ đang mang Hồng đai đệ IV cấp (tương đương đai đen 8 đẳng) và hàng tuần đều dành 3 buổi tự ôn luyện. Chẳng những rất vững vàng về kỹ thuật tự vệ và chiến đấu, ông còn chuyên tâm nghiên cứu về dưỡng sinh nên thường được đồng môn gọi vui là “chuyên gia Vovinam dưỡng sinh”…
(Theo Báo Mới)
VÕ TA - VÕ TÀU VÕ NÀO HAY HƠN?
![]() |
| Vật cổ truyền Việt Nam |
Có người cho rằng võ ta chắc chắn phải hay hơn, bằng chứng là suốt quá trình chiến đấu chống ngoại xâm, võ ta đã luôn mang lại chiến thắng sau cùng cho dân tộc Việt. Trong khi đó, một số người khác lại nói võ Tàu nhất định phải hay hơn võ ta, bởi lẽ Thiếu Lâm, Vịnh Xuân… đều lừng danh bốn cõi. Vậy sự thật Võ ta – Võ tàu võ nào hay hơn?
Bên cạnh những môn võ nước ngoài mà ngày nay gần như trở nên quen thuộc với tất cả mọi người, như: Taekwondo, Judo, Karate, Aikido…, trong dân gian Việt Nam còn có hai từ “Võ Ta” và “Võ Tàu” dùng để chỉ chung các môn võ có nguồn gốc tại Việt Nam (võ Ta), và Trung Quốc (võ Tàu). Đề cập đến sự hữu dụng của hai môn võ này, Võ sư Hồ Tường có một số chia sẻ sau:
Võ ta là các môn võ có xuất xứ từ Việt Nam, do chính con người Việt Nam sáng tạo, một mặt đáp ứng nhu cầu chiến đấu để sinh tồn, mặt khác vừa để rèn luyện sức khỏe cũng như hun đúc tinh thần thượng võ. Trước đây, người ta thường chia võ ta làm hai loại chính: Võ kinh và võ lâm. Võ kinh là loại võ ta được các triều đại phong kiến đúc kết lại dể huấn luyện và khảo thí cho binh lính ở kinh đô, kết hợp với binh thơ, đồ trận, nhằm phục vụ công cuộc bảo vệ và mở mang bờ cõi. Còn võ lâm là loại võ phổ biết trong nhân dân cả nước. Sỡ dĩ gọi võ lâm là vì ngày xưa, ngoài kinh đô là làng mạc tiếp giáp với rừng rậm, cho nên võ của dân chúng sử dụng chủ yếu là nơi rừng rậm, mà rừng còn gọi là lâm theo chữ Nho. Cả võ kinh và võ lâm đều bao gồm đủ các môn: quyền cước, binh khí, vật và công phu.
![]() |
| Võ sư Trần Tiến – Nội gia quyền |
Quyền cước của võ ta bao gồm những đòn tay, đòn chân tấn công hay phòng thủ, cộng với việc sử dụng các bộ phận khác của cơ thể như: dầu, vai, hông, mông… theo chiều hướng khác nhau để tạo thêm hiệu quả – hầu hết các môn võ ta đều có những bài tập tổng hợp toàn bộ các căn bản nói trên gọi là bài quyền (hay quờn, thảo) theo từng trình độ thấp lên cao. Binh khí của võ ta vô cùng phong phú, cũng đủ loại trường đoản khác nhau. Có người nói rằng võ ta có 18 loại binh khí giống như võ Tàu, và gọi là thập bát ban võ nghệ. Tuy nhiên, trong thực tế, số lượng binh khí của võ ta xem ra nhiều hơn 18 loại; trong đó có nhiều loại khá đặc sắc, như: sợi dây thừng, chiếc khăn dài… Võ ta còn có vật. Môn vật trong võ ta cũng có đủ các tư thế vật như các môn Judo, Sambo, Sumo. Đặc biệt, trong võ ta, môn vật đã phát triển mạnh và trở thành một bộ môn riêng. Riêng môn công phu trong võ ta, cho đến nay, vẫn chưa thể thống kê được là có bao nhiêu môn. Một số môn vẫn thường được nhắc tới như: xỉa mũi bàn tay xuyên thủng qua thân cây chuối, nhảy cao lên ngang (hay vượt qua) nóc nhà tranh…
Võ ta phát triển suốt chiều dài lịch sử, từ Bắc vào Nam, tạo nên những vùng đất võ khá nổi tiếng như: Yên Thế ở Bắc bộ, Bình Định ở Trung bộ, Tân Khánh Bà Trà ở Nam bộ… Tuy vậy, võ ta ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều có những bài quyền, bài binh khí giống nhau từ tên gọi, bài thiệu (tức những câu thơ chỉ tên đòn thế trong bài) cho đến các đòn thế kỷ thuật chính yếu trong bài. Chẳng hạn như các bài: Ngọc Trản Quyền, Lão Mai Quyền, Siêu Xung Thiên… Đặc biệt, từ năm 1938, một môn võ ta mới được hình thành bằng cách lấy võ và vật Việt Nam làm nòng cốt, hóa giải và thái dụng một số tinh hoa của các môn võ khác để cải tiến nền tảng kỹ thuật của mình theo nguyên tắc Cương Nhu Phối Triển, đó là mônVovinam – Việt Võ Đạo. Đặc trưng kỹ thuật của môn võ ta mới này là các đòn đá bay dùng hai chân kẹp cổ đối phương để quật ngã.
![]() |
| Vovinam |
Trong khi đó, võ Tàu dùng để chỉ các môn võ có gốc gác từ Trung Quốc du nhập sang Việt Nam. Võ Tàu có rất nhiều môn phái, bên cạnh hai môn Thiếu Lâm và Võ Đang, còn có các môn khác như: Vịnh Xuân, Đường Lang, Thái Lý Phật, Hồng Quyền, Hồng Gia Quyền, Thái Gia Quyền… Riêng về môn phái Võ Đang mà nhiều người cho rằng biểu trưng của nó là Thái Cực Quyền, thực ra thì bản thân Thái Cực Quyền đã phân chia ra vô số hệ phái: Trần gia, Dương gia, Trịnh gia, Triệu gia, Ngô gia… với những kỹ thuật đặc trưng hầu như khác nhau hoàn toàn. Ngoài ra, võ Tàu còn có một môn khá mới mà nhiều người hâm mộ võ thuật của thế giới đều biết – đó là Wushu. Môn võ mới này tập trung tất cả những tinh hoa của võ thuật Trung Quốc với các bài quyền, bài binh khí (gọi là Taolu) cũng như kỹ thuật đối kháng (gọi là Shanshou hay tán thủ).
Cũng như võ Ta, các môn phái của võ Tàu đều có vô số những bài quyền, bài binh khí các loại hoàn toàn khác nhau. Mỗi bài như vậy cũng có những bài thiệu ghi tên đòn thế như trong võ ta. Về mặt kỹ thuật, mỗi một môn phái trong võ Tàu có những dặc trưng riêng thể hiện trong các bài quyền, bài binh khí của môn phái đó. Chẳng hạn như hầu hết các trường phái Thái Cực Quyền đều thể hiện bài quyền và bài binh khí của mình thật chậm rãi và vô lực, trong khi đó Hồng quyền thì đặc biệt chú trọng đến việc nén khí trong lồng ngực kết hợp với các dộng tác vận chuyển những cơ bắp ở tứ chi khi thi triển quyền pháp… Bên cạnh các kỹ thuật quyền cước, binh khí, võ Tàu còn nổi tiếng với các môn công phu như: khí công, nội công, ngoại công, điểm huyệt.. mà trong võ ta ít nghe nói tới.
Thế thì võ ta và võ Tàu khá nhau ra sao? Việc nhận diện những điểm khác nhau giữa võ Ta và võ Tàu khó có thể kể hết được trong phạm vi một bài viết ngắn. Trong bài này, với những kinh nghiệm bình thường của bản thân, chúng tôi xin nêu lên một vài điểm dị biệt giữa võ Ta và võ Tàu dễ nhận biết nhất. Đó là:
Các bài thiệu của võ Ta thường là một bài thơ (tứ tự, ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát, song thất lục bát), trong khi đó bài thiệu của võ Tàu là các nhóm từ gọi tên đòn thế, nằm rời rạc, không bắt vần nhau.
Bài quyền và bài binh khí võ Ta thường chỉ triển khai chủ yếu theo một đường thẳng; trong khi đó các bài võ Tàu phát triển theo khá nhiều hướng (ba hướng, bốn hướng, tám hướng…). Kỹ thuật ra đòn trong bài quyền hay bài binh khí của võ Ta thường liên hoàn, tạo thành các mắt xích liền nhau. Còn kỹ thuật ra đòn trong các bài võ Tàu hầu hết đều có những điểm dừng nhất định, như để tạo hình cho từng đòn thế và thể hiện sự phát lực.
![]() |
| Võ cổ truyền Việt Nam |
Vậy giữa võ Ta và võ Tàu, môn nào hay hơn? Phải nói ngay rằng cả hai môn võ đều có những kỹ thuật hay, vì nếu không thì chúng đã không tồn tại đến ngày nay, mà đã bị loại bỏ theo qui luật đào thải của xã hội loài người. Còn việc so sánh để xem môn nào hay hơn môn nào thì thực ra trong lãnh vực võ thuật, không ai có khả năng thực hiện được, bởi mỗi một môn võ được hình thành và phát triển từ những con người và hoàn cảnh xã hội, địa lý khác nhau. Người ta chỉ có thể so sánh một người học võ Ta với một người khác học võ Tàu hơn hay kém nhau do mức độ luyện tập và phản
Tóm lại, không thể nào so sánh môn võ này hơn môn võ kia được, mà chỉ có người học môn võ này hay hơn, hay kém hơn người học võ kia, do kỹ thuật và kinh nghiệm của chính bản thân người này hơn hay kém người kia mà thôi!
Nguồn: Hội những người yêu Võ Cổ Truyền Việt Nam
VOVINAM VÀ ĐÒN ĐẤM MÚC
![]() |
| Đấm múc |
Một đòn đấm múc (upper cut) theo chiều dọc (hoặc xiên) được tung từ dưới lên trên bằng tay phải (hoặc trái). Đấm múc thường được sử dụng để phá thế phòng thủ 2 tay che chắn trước mặt hoặc thái dương của đối phương.
Từ vị trí phòng thủ, võ sinh Vovinam thân hơi xoay về bên phải, tay phải hạ thấp xuống dưới tầm ngực của đối phương và đầu gối hơi cong ra phía sau. Tay phải đẩy mạnh lên cằm hay thân của đối phương tạo thành hình vòng cung. Đồng thời, đầu gối đẩy lên nhanh chóng, thân và hông xoay ngược chiều kim đồng hồ và gót chân sau xoay ra ngoài, bắt chước những chuyển động cơ thể của đòn đấm thẳng tay sau.
Tác dụng mang tính chiến lược của đòn đấm múc lên nằm ở hiệu quả của việc “xốc” đối thủ lên, làm cho đối thủ mất thăng bằng để tung ra những đòn đấm tiếp theo.
Đòn đấm múc lên bằng tay phải, tiếp sau đó là cú móc ngang bằng tay trái, một sự kết hợp chết người. Đòn đấm múc lên sẽ nâng cằm của đối thủ vào một vị trí dễ bị tổn thương, sau đó cú đấm móc ngang (hook) sẽ loại bỏ đối thủ ra khỏi trận đấu. Ngoài ra, đích đến của đòn đấm múc còn ở các vị trí: chấn thủy và bụng.
Theo dõi các trận đấu boxing để tìm hiểu kỹ hơn về đòn đấm múc (Upper Cut)!
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)

.jpg)












